Ảnh = Ký ức = Lịch sử (kỳ 82): Điện đến xứ ta
Dã sử lưu truyền câu chuyện giai thoại về chuyến sứ đoàn Đại Nam sang Pháp xin chuộc đất. Sau chuyến đi, Chánh sứ Phan Thanh Giản gói gọn cảm nghĩ vào 2 câu thơ: "Từ ngày đi sứ tới Tây Kinh/ Thấy chuyện Âu châu phải giật mình". Trong những cái khiến vị thượng thư "phải giật mình" là nhận xét "Bên Tây có cái đèn lộn ngược mà dầu không đổ, thắp lên sáng vô cùng". Ấy là cái bóng đèn điện.
Nay đọc lại ta biết chắc đó là chuyện không có thật. Vì việc sử dụng điện để thắp sáng đã có những phát minh từ đầu thế kỷ XIX, nhưng để ứng dụng một cách phổ biến thì phải nhờ đến phát minh của Thomas Edison đưa cái sợi tóc được điện đốt cháy vào một cái bóng đèn thủy tinh cho an toàn thì đèn điện mới thực sự đến với công chúng. Đó là năm 1879, còn sứ đoàn Đại Nam đến Pháp lần đầu là năm 1863.
Nhưng đến năm 1894, nguyên Kinh lược Bắc kỳ, Tổng đốc Hà Nội Nguyễn Trọng Hợp, sau chuyến thăm Pháp, khi mô tả cây cầu bắc qua sông Seine ở Paris bằng câu thơ đầy thán phục: "Bỗng ngờ sao rụng trên trời xuống/ Đèn sáng trời không biết có đêm" thì lúc đó ánh sáng thắp trên đường phố và các kiến trúc của thủ đô hoa lệ của nước Pháp đã là ánh điện rồi. Năm 1881, nước Pháp đã tổ chức Đấu xảo Hoàn vũ mà điểm nhấn là ánh sáng điện và sức mạnh của điện khí trong đời sống công nghiệp và đô thị.
Cũng chỉ 15 năm sau, điện đã được thắp sáng ở nước ta. Nước Mỹ tiên phong, nhưng nước Pháp cũng được coi là một xứ sở của phát kiến này, đã đưa điện đến Việt Nam, một phần để phục vụ các đô thị, nơi có nhiều người Pháp sinh sống và công cuộc khai thác thuộc địa đang mở ra.
Phải nói rằng ứng dụng của điện sớm nhất là phục vụ công việc thông tin trước hết của quân đội và chính quyền, còn việc sử dụng điện thắp sáng được thực hiện sau, nhằm thay thế các loại đèn vốn thắp bằng dầu thực vật của bản địa, đất đèn, rồi đến dầu hỏa (nhập từ Hoa Kỳ). Toàn quyền Jean-Marie de Lanessan là người vừa đón ánh sáng điện đầu tiên ở Hà Nội thì đã lên đường về nước, cũng như người kế nhiệm là Toàn quyền Paul Doumer thì khai trương đường sắt vượt cầu qua sông Hồng rồi cũng ra thẳng cảng Hải Phòng xuống tàu về nước.
Điều đáng nói, nơi đầu tiên được điện thắp sáng tất nhiên là các đô thị. Nhưng không phải là Sài Gòn, dù đã là thành phố thuộc địa từ những năm 1860. Cũng không phải là Hà Nội, cố đô và là tỉnh thành lớn nhất ở Bắc kỳ. Mà chính là Hải Phòng nhỏ bé, nhưng có cảng, lại gần nguồn than, một đô thị phát triển sớm hơn Hà Nội, trước khi có cầu thép nối hai bờ sông Hồng ở Hà Nội.
Hải Phòng là đô thị sớm nhất bàn đến việc xây nhà máy phát điện, Đốc lý thành phố cảng biển này đã ký với nhà thầu mang tên hai nhân vật là Hermentier và Planté một hợp đồng cam kết "tiến hành thiết kế và cung cấp điện cho thành phố Hải Phòng" vào ngày 12/4/1892. Rồi cũng chính nhà thầu này, gần nửa năm sau, ngày 6/12/1892 đã ký một hợp đồng có nội dung tương tự với Đốc lý Hà Nội.
Với Hà Nội, hợp đồng quy định sẽ "chiếu sáng cho tất cả các phố của Hà Nội bao gồm khu vực giữa Bệnh viện Mới (Lanessan - Đồn Thủy, nay là Viện 108 và Hữu nghị), dọc sông Hồng, phố Jean Dupuis (Ô Quan Chưởng - Hàng Chiếu); phía Đông thành cổ (nay là dọc Đường Thành - Phùng Hưng); phố Camps des Lettres (Tràng Tiền - Tràng Thi cho tới Cửa Nam); đại lộ Gambetta (Trần Hưng Đạo) và Gia Long (Bà Triệu)… theo thiết kế của Công ty Lục địa Édison" (không rõ của Pháp hoặc của Mỹ?).
Vậy thì trước khi có điện, Hà Nội đã được thắp sáng chưa? Về lý thuyết là có, vì chính văn bản hợp đồng ghi rõ các bóng đèn điện sẽ được "đặt trên hệ thống cột và lồng đèn cũ vốn thắp sáng bằng dầu hỏa". Nhưng Hà Nội đã tàn lụi sau khi không còn là kinh đô (từ 1804), nên trừ những nơi là công sở, dân cư trong các phố phường chấp nhận sống trong bóng tối trên những con phố dễ cháy (nhiều tre nứa lá), an ninh thay bằng các cổng phố cũng như cổng nhà khóa chặt…
Về chất lượng đèn điện thì hợp đồng quy định rõ "đèn sử dụng là loại đèn có độ sáng 60 nến (bougies) thuộc hệ thống Edison-Swan, có gương phản chiếu, được cấp điện bằng dây đồng đặt trên sứ cách điện và đặt trên các cột sắt được sơn và có độ cao 6m. Lưới điện phải khép kín có 3 dây dẫn bảo đảm chiếu sáng toàn thành phố và đáp ứng các nhánh cấp điện cho đèn công cộng và tư gia… Nhà thầu được thanh toán 4 xu cho mỗi ngọn đèn thắp sáng mỗi đêm…" , văn bản cũng quy định tiền phạt nhà thầu khi đèn không sáng…
Như thế, có thể coi việc cấp điện chiếu sáng công cộng cho các đô thị là một sự thay đổi lớn cho Hải Phòng, nơi có điện sớm nhất được phát từ một nguồn máy có công suất 750 KW vào tháng 2/1894. Còn Hà Nội thì chậm hơn một năm, dự kiến sẽ đón điện cùng lúc đón năm mới (1/1/1895). Nhưng rốt cuộc, ngày 5/1/1895, Hà Nội mới được thắp sáng từ tổ máy phát có 500 KW bên hồ Hoàn Kiếm. Ngẫu nhiên, cả 2 tổ máy ở hai đô thị này đều nằm trên một con phố mang tên "Francis Garnier", viên sĩ quan chỉ huy các cuộc đánh chiếm mỏ than và các đô thị ở Bắc kỳ, rồi chết trận ở Cầu Giấy (Hà Nội). Ở Hải Phòng ngày nay là phố Minh Khai, còn ở Hà Nội là Đinh Tiên Hoàng.
Tuy công suất ban đầu thì trạm phát của Hải Phòng lớn hơn, nhưng Hà Nội, nhất là sau khi có "cầu Doumer" (1902) thì dân số và không gian đô thị tăng vọt, nên ngoài việc mở rộng quy mô thắp sáng rồi khai thác thương mại cho các nhu cầu tư gia, Hà Nội nhanh chóng xây dựng một tuyến giao thông nội thị bằng đường xe điện rất hiệu quả, lấy đầu mối trung tâm là Bờ Hồ tỏa ra 5 tuyến tới các cửa ô và qua các chợ… ra tới ngoại thành. Về sau, nguồn điện được tăng cường bởi các nhà máy điện thế hệ mới, xây ở Cửa Cấm, Hải Phòng (4.200 KW), còn Hà Nội xây ở Yên Phụ (7.500 KW).
Sài Gòn, muộn có điện hơn, nhưng từ năm 1890 đã lập "Công ty Xe điện Pháp Đông Dương" và có "tramway", nhưng chạy bằng… than hoặc củi. Về sau, khi đã thành một thành phố đông dân nhất nước thì lại là nơi nhiều ánh đèn điện hơn cả, với Nhà máy điện Chợ Quán… Rồi điện còn chạy máy tăng tốc công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân, nhưng cũng cải thiện tiện nghi cho các đô thị thuộc địa.
Một bài hát "xẩm tàu điện" đã khái quát sự thay đổi ấy: "Thằng Tây ngồi nghĩ cũng tài/ Sinh ra đèn máy thắp hoài năm canh/ Thằng Tây ngồi nghĩ cũng sành/ Sinh ra tàu điện chạy quanh phố phường"…