Hội thảo khoa học quốc tế: Nữ sĩ Hồ Xuân Hương – Danh nhân văn hóa và giá trị di sản
Sáng 3/12, tại thành phố Vinh (Nghệ An), tỉnh Nghệ An phối hợp Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Ủy ban quốc gia UNESCO Việt Nam tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế Nữ sĩ Hồ Xuân Hương (1772- 1822) – Danh nhân văn hóa và giá trị di sản.
Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hoàng Đạo Cương; Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An Nguyễn Đức Trung; Phó giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Hữu Sơn, nguyên Phó Viện trưởng Viện Văn học, Viện Hàn lâm khoa học và Xã hội; Phó Giáo sư, Tiến sỹ Biện Minh Điền, giảng viên cao cấp Trường Đại học Vinh cùng chủ trì hội thảo. Tham dự hội thảo còn có Trưởng đại diện UNESCO tại Việt Nam, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu thơ nữ sĩ Hồ Xuân Hương.
Tại hội thảo, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu đã tham luận, làm rõ những vấn đề về vị thế, tầm vóc và lịch sử tiếp nhận, chuyển ngữ (dịch thuật) Hồ Xuân Hương; vấn đề thân thế, quê hương và thời đại Hồ Xuân Hương; Hồ Xuân Hương trong các mối liên hệ với văn hóa dân tộc, văn hóa khu vực và văn hóa nhân loại; đặc sắc hiện tượng văn hóa Hồ Xuân Hương; những vấn đề về thi pháp, phong cách nghệ thuật và sức hấp dẫn, lan toả của thơ Hồ Xuân Hương; vấn đề tiếp nhận và phát huy giá trị di sản của Danh nhân Hồ Xuân Hương trong bối cảnh hiện nay.
Tầm vóc một Danh nhân văn hóa thế giới
Phát biểu đề dẫn tại hội thảo, Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An Nguyễn Đức Trung nhấn mạnh, Nghị quyết 41C/15 ngày 23/11/2021của Đại hội đồng UNESCO thống nhất vinh danh và cùng tham gia kỷ niệm 250 năm năm sinh 200 năm mất của Nữ sĩ Hồ Xuân Hương (1772 - 1822) - Bà chúa thơ Nôm của Việt Nam đã khẳng định sự đánh giá cao của quốc tế đối với những giá trị về văn học nghệ thuật và đặc biệt là tư tưởng về bình đẳng giới, giải phóng phụ nữ của Nữ sĩ Hồ Xuân Hương, xứng tầm là một Danh nhân văn hóa mang tầm vóc nhân loại, nhà thơ mang tầm vóc một Thi hào. Cũng từ đây, Nữ sĩ Hồ Xuân Hương được UNESCO trao sứ mệnh vinh quang: sứ mệnh truyền cảm hứng và lan tỏa ảnh hưởng tích cực đến mọi người trên thế giới.
Bà Chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương (1772- 1822) nguyên quán ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu (Nghệ An), là nữ thi sĩ nổi tiếng và tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa cuối thế kỷ XIX. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương là một trong 6 danh nhân được UNESCO vinh danh cùng với Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh, Nguyễn Du, Chu Văn An, Nguyễn Đình Chiểu.
Tại hội thảo, Phó Giáo sư, Tiến sỹ Biện Minh Điền, giảng viên cao cấp Trường Đại học Vinh trình bày tham luận “Nữ sĩ Hồ Xuân Hương với thời gian và tầm vóc một danh nhân văn hóa, một thi hào”. Ông cho rằng, Hồ Xuân Hương qua các thi tập đa dạng, độc đáo, tài hoa của bà như Thơ nôm truyền tụng (mảng thơ viết bằng chữ Nôm, được truyền tụng phổ biến trong dân gian, khoảng trên 100 bài), Lưu hương ký (gồm 24 bài thơ chữ hán và 28 bài thơ Nôm), Hương đình cổ nguyệt thi tập (gồm 9 bài thơ chữ Hán), Đồ Sơn bát vịnh (gồm 8 bài thơ chữ Hán), Đề Vịnh Hạ Long (gồm 5 bài thơ chữ Hán)… đã khẳng định tài năng thơ ca và cái tôi rất riêng của nữ sĩ. Cho đến năm 2021, thơ Hồ Xuân Hương đã được dịch ra 13 thứ tiếng khác nhau trên thế giới, trong đó Tiếng Việt qua thơ Hồ Xuân Hương là một thứ ngôn ngữ nghệ thuật đa nghĩa, nhiều hàm ý, sắc sảo, độc đáo và tài hoa, đầy thách thức đối với các “tài tử”, “văn nhân” đương đại khi chuyển ngữ, dịch thơ bà sang tiếng nước mình.
Phó Giáo sư, Tiến sỹ Biện Minh Điền nêu rõ, thơ Hồ Xuân Hương thể hiện một tư tưởng nhân văn, nhân bản mang tính nhân loại sâu sắc với hạt nhân là đấu tranh đòi quyền sống, quyền yêu đương, hạnh phúc cho con người, trước hết là người phụ nữ. Con người trong thơ bà là con người với tư cách là những thực thể tồn tại trên mặt đất với mọi nhu cầu trần thế, nhu cầu hiện sinh chính đáng. Có thể nói tiếng nói vang dội nhất trong thơ Hồ Xuân Hương là tiếng nói đấu tranh đòi nữ quyền (quyền bình đẳng, quyền được yêu thương, hạnh phúc, quyền được công khai hiện diện trong cuộc sống) với tất cả những gì mà tạo hóa ban cho họ. Điều này được thể hiện trong các bài thơ của bà như Bánh trôi nước, Thiếu nữ ngủ ngày, Đèo Ba Dội, Động Hương Tích, Vịnh cái quạt, Dệt cửi, Đánh đu.
“Song song với tiếng nói đánh thức, khơi gợi diệu kỳ khó ai có thể làm được ấy là tiếng nói phê phán mạnh mẽ các thế lực (chế độ phong kiến, giáo lý Nho giáo, các giới, loại người “phàm phu, tục tử”) đã tạo ra những ràng buộc vô lý đối với con người, tạo ra sự bất bình đẳng giới giữa nam và nữ, tạo ra những lề thói, hủ tục cản trở sự tiến bộ (Lấy chồng chung, Không chồng mà chửa, Thân phận người đàn bà). Bà cũng phê phán không khoan nhượng tệ tham nhũng, giả dối, lọc lừa của mọi hạng người vô liêm sỉ trong xã hội..., Phó Giáo sư, Biện Minh Điền nhấn mạnh.
Giáo sư, Tiến sỹ Trần Đình Sử (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội) với tham luận Thơ Hồ Xuân Hương trong truyền thống văn học thế giới cho rằng, thơ Hồ Xuân Hương rất đa dạng, nhiều loại, mà thơ truyền tụng chỉ là một loại trong đó. Thơ Hồ Xuân Hương trong tập “Lưu hương ký” rõ ràng là thơ trữ tình đặc sắc cả chữ Hán và chữ Nôm thể hiện một tư tưởng nhân văn, nhân bản mang tính nhân loại sâu sắc với hạt nhân là đấu tranh đòi quyền sống cho con người, một quan niệm văn hóa, thẩm mỹ độc đáo chưa từng có về các nhu cầu cơ bản của con người như tính dục, đời sống bản năng, trần tục dưới chế độ phong kiến với tư tưởng Nho giáo kiềm tỏa nặng nề.
Đặc sắc nghệ thuật của thơ Hồ Xuân Hương dù là vịnh người, vịnh vật, vịnh phong cảnh, vịnh hoạt động làm ăn, đều là vừa ẩn dụ, vừa biểu tượng, vừa có chút tả thực. Ví như bài Quả mít. Những từ như da nó xù xì, múi nó dày, đóng cọc, măn mó, nhựa ra tay,...đều có ý tả thực.
Điều khác biệt trong thơ Hồ Xuân Hương là có yếu tố sắc dục, là một bộ phận trong thơ truyền tụng và luôn luôn đậm đà chất thơ. Điều này tuyệt đối không được lầm lẫn. Thơ của bà không chuyên về một phương diện nhục cảm, mà trước hết bà là một nhà thơ trữ tình với cái tôi cô đơn, số phận thiệt thòi, khát khao hạnh phúc. Bà còn có những bài nói về cuộc sống gia đình, số phận người làm lẽ, chế nhạo kẻ dốt nát, những bài thơ khóc chồng, nhữngbài thơ bỡn cợt, những bài thơ thù tạc, đối đáp với các bạn trai.
“Hồ Xuân Hương là nhà thơ đa tài, thơ Hán đã hay mà thơ Nôm càng hay, có phần lấn lướt thơ chữ Hán. Bà có thể làm rất nhiều loại thơ khác nhau, mà thơ nào cũng điêu luyện, đọc lên rung động cả tâm hồn. Riêng loại thơ diễm tình (erotic) có truyền thốnglâu đời trong thơ Đông Á, nhưng v
Phát huy di sản văn học nữ sĩ Hồ Xuân Hương
Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An Nguyễn Đức Trung khẳng định, Nghệ An vinh dự và tự hào là quê hương của hai danh nhân đã được UNESCO vinh danh, là Chủ tịch Hồ Chí Minh và nữ sĩ Hồ Xuân Hương. Nghệ An sẽ là tốt việc gìn giữ, phát huy các di sản văn hóa à Danh nhân văn hóa thể giới để lại.
Theo Phó Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An Nguyễn Đức Trung, Nghị quyết 41C/15 của UNESCO được Đại Hội đồng UNESCO thông qua, đã xác định các điểm cốt lõi về nữ sỹ Hồ Xuân Hương. Đó là: Hồ Xuân Hương có tư tưởng nhân văn mang tính nhân loại sâu sắc với hạt nhân là đấu tranh đòi quyền sống cho con người, con người với tư cách là những thực thể tồn tại trên mặt đất với mọi nhu cầu, khát vọng sống trần thế; thơ Hồ Xuân Hương là một hiện tượng văn hóa - thẩm mỹ đặc biệt với cả một hệ thống quan niệm độc đáo qua các tác phẩm thi ca; có đóng góp lớn cho nữ quyền, cho sự bình đẳng của phụ nữ.
Bên cạnh đó, Di sản của Hồ Xuân không chỉ là thơ ca, mà còn là hệ ứng xử, tinh thần, ý thức vì một sự tiến bộ tốt đẹp. Hồ Xuân Hương không chỉ có đấu tranh, bảo vệ mà còn có ý thức cảnh báo, phê phán, chống lại, phủ định những gì ngăn cản sự tiến bộ của con người. Di sản của bà để lại có một sức sống mãnh liệt, lan tỏa, truyền cảm hứng đến nhiều dân tộc, nhiều quốc gia.
“Hơn 200 năm qua, Hồ Xuân Hương, một tài năng văn học gắn với nhiều bí ẩn đã không ngừng thu hút sự quan tâm của đông đảo công chúng và giới nghiên cứu ở cả trong và ngoài nước. Phong cách thơ Hồ Xuân Hương khoáng đạt, sáng tạo, độc đáo bậc thầy, với hệ thống các phương thức, phương tiện nghệ thuật được vận dụng và thực thi đầy linh hoạt, biến hóa, nhiều bài đạt tầm kiệt tác, xứng đáng là đỉnh cao của thơ Nôm (tiếng Việt). Về tư tưởng, thông qua các tác phẩm của mình, Hồ Xuân Hương đã nói lên tiếng nói đấu tranh đòi quyền sống cho con người, trước hết là nữ quyền và quyền bình đẳng”, Chủ tịch UBND tỉnh Nghệ An Nguyễn Đức Trung nhấn mạnh.
Phát biểu tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hoàng Đạo Cương cho rằng, đã từ lâu, Nghệ An luôn được biết đến là vùng địa linh nhân kiệt và là địa phương có mật độ di sản văn hóa đậm đặc trải rộng khắp từ khu vực đồng bằng đến miền núi. Năm 2022, cùng với Chủ tịch Hồ Chí Minh, tròn 35 năm được UNESCO vinh danh, Nghệ An tự hào có thêm nữ sĩ Hồ Xuân Hương được UNESCO ban hành Nghị quyết vinh danh và cùng tham gia kỷ niệm 250 năm năm sinh, 200 năm năm mất.
Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hoàng Đạo Cương cho rằng, trải qua hơn 200 năm xuất hiện trên văn đàn, nữ sĩ Hồ Xuân Hương vẫn là một hiện tượng văn học tài năng nhưng ẩn chứa rất nhiều bí ẩn chưa có lời giải đáp. Phong cách với cá tính sáng tạo độc đáo của Hồ Xuân Hương chắc chắn sẽ còn là vấn đề hấp dẫn cho những công trình nghiên cứu trong tương lai.
Với tấm lòng yêu mến, tâm huyết với việc tôn vinh và bảo vệ, phát huy di sản văn hóa gắn với nữ sĩ Hồ Xuân Hương, sự hiểu biết uyên thâm, trách nhiệm cao của các nhà khoa học, các nhà quản lý sẽ là sự tổng hợp, đánh giá một cách toàn diện, sâu sắc về tầm vóc nữ sĩ Hồ Xuân Hương trong lịch sử văn học Việt Nam và thế giới. Đồng thời, thông qua hội thảo sẽ có thêm nhiều phát hiện mới, có giá trị về cuộc đời, sự nghiệp của danh nhân, cũng như đề xuất thêm nhiều ý tưởng, sáng kiến, giải pháp hay được chia sẻ, thảo luận để giúp tỉnh Nghệ An bảo tồn và phát huy di sản văn hóa về Nữ sĩ Hồ Xuân Hương.