Bolero trở thành Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại: 'Tristezas' - Làm sao em thấu nỗi sầu tình tôi
Khác với một ca khúc, một dòng nhạc thường không ra đời như một chớp cảm hứng ập tới, mà nó là sự tích tụ của cả một nền văn hóa. Trường hợp nhạc bolero cũng vậy. Nó không chỉ là nốt nhạc trên tập chép, mà còn là một phong cách sống, một khí chất riêng của nơi sản sinh ra nó.
Ngày 5/12/2023, UNESCO đã chính thức tôn vinh nghệ thuật bolero là Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, theo đề nghị của Cuba và Mexico. Trước đó, năm 2018, bolero đã trở thành di sản văn hóa phi vật thể của Mexico, còn Cuba đưa nghệ thuật này vào danh sách quốc gia năm 2021.
Cha đẻ dòng bolero
Không hòa tan trong những dòng nhạc châu Âu tràn vào Cuba thời đó, chàng nhạc sĩ trẻ José "Pepe" Sánchez đã rẽ về nguồn cội của mình, tạo nên dòng bolero với ca khúc Tristezas (Nỗi sầu), vừa đậm tính cá nhân lại vừa mang tính phổ quát thời đại.
Vào cuối thế kỷ 19, không khí âm nhạc ở thành phố Santiago de Cuba vô cùng rực rỡ. Thể loại du ca (trova) ngày càng ăn sâu vào văn hóa đại chúng với sự kết hợp từ văn hóa châu Âu, nhịp điệu châu Phi và bản sắc Mỹ Latin. Mỗi nghệ sĩ lại thi đua để tạo dấu ấn riêng cho mình, cùng nhau hình thành phong trào âm nhạc với những đặc điểm rõ ràng, mà về mặt học thuật có thể gọi là chủ nghĩa tân lãng mạn đại chúng ở Cuba.
Nổi bật trên nền bối cảnh này là José "Pepe" Sánchez, người tích cực truyền bá dòng nhạc travo và sáng tạo ra nhạc bolero - một phần của trova. Có ảnh hưởng rất lớn tới âm nhạc Cuba là vậy nhưng xuất thân của Sánchez lại không như mọi người nghĩ, và có thể, đó là lý do tạo ra sự khác biệt nơi ông - biểu hiện qua nhạc bolero.
Sánchez sinh ra ở Cuba vào năm 1856. Nói về nghề nghiệp, ông vốn là thợ may có tiếng. Không những thế, ông còn sở hữu một mỏ đồng và là người đại diện tại Santiago de Cuba cho một nhà máy sản xuất vải ở Kingston, Jamaica.
Âm nhạc tới với Sánchez theo đường đi tự nhiên nhất. Không hề qua bất cứ trường lớp âm nhạc chuyên nghiệp nào, kiến thức âm nhạc của ông thuần túy là từ trực quan. Ông học guitar bằng cách nhìn và học thuộc, không cần bản nhạc. Tương tự như vậy, ông sáng tác mọi thứ trong đầu, ghi nhớ mà chưa một lần hạ bút viết lại. (Hậu quả là sau này, hầu hết các sáng tác của ông đều lạc trong dòng thời gian, chỉ còn khoảng hai chục bản tồn tại nhờ bạn bè và học trò chép lại ra giấy).
Thế nhưng, bằng tài năng thiên bẩm, ông có khả năng chơi guitar đáng ngưỡng mộ và khiến người khác say đắm bởi giọng nam trung truyền cảm. Thời điểm đó, là người lai, ông đi lại rộng rãi trong giới thượng lưu nhờ tài năng cả về âm nhạc lẫn kinh doanh.
Ca khúc bolero đầu tiên “Tristezas”, biểu diễn bởi nghệ sĩ trevo Carlos y Marta và cộng sự/vợ ông Marta Ramízez
Nhưng có những phòng khách mà ông lui tới - hoặc chính mình tổ chức - thường xuyên hơn nhiều là các buổi "peñas". Sau một ngày lao động trên bàn may, vào buổi tối, Sánchez cùng những nghệ sĩ âm nhạc - mà ban ngày, có thể cũng như ông, làm nhiều công việc khác nhau - tụ tập trong các phòng khách. Ở đây, họ có thể riêng lẻ hoặc lập thành các bộ đôi, bộ ba hay bộ tứ, cùng nhau sáng tạo, thi đua âm nhạc.
Thời điểm này, chàng trai Sánchez, cùng với cây guitar của mình, cũng thường hát những bản seranade vốn rất thời thượng khi đó ở thành phố quê hương. Nhưng trong ông vẫn có chất âm nhạc riêng, không bị ảnh hưởng bởi kinh viện, được hun đúc từ nguồn cội quê hương, và chính từ đó mà ca khúc bolero đầu tiên đã ra đời, Tristezas, vào năm 1883 ở Santiago de Cuba.
Sánchez học guitar bằng cách nhìn và học thuộc, không cần bản nhạc. Tương tự như vậy, ông sáng tác mọi thứ trong đầu, ghi nhớ mà chưa một lần hạ bút viết lại.
Nỗi niềm tình ái
Về mặt hình thức âm nhạc, Tristezas gồm 2 đoạn, mỗi đoạn 4 câu với 16 ô nhịp, được ngăn cách - và kết nối - bằng một đoạn guitar du dương, gọi là "pasacalle". Đây sẽ là hình mẫu cho các tác phẩm về sau.
Tuy nhiên, như đã nói ở trên, vì không tự tay chép xuống nên ngày nay, không có cách nào xác định chính xác âm sắc của ca khúc. Nó có thể được sáng tác ở cung trưởng hoặc cung thứ hoặc kết hợp cả hai.
Tạm gác chuyện đó qua một bên, một đặc trưng lớn hơn của bolero, thể hiện rất rõ trong Tristezas, đó là ca từ. Không giống như các ca ca khúc canción thời đó vốn đơn giản và đa dạng về chủ đề, bolero không bắt nguồn trực tiếp từ truyền thống trữ tình châu Âu - như opera Italy - vốn phổ biến ở các trung tâm đô thị như Havana thời đó. Thay vào đó, bolero luôn có ca từ phức tạp về riêng tình yêu và mang âm hưởng dân gian. Do đó, nó được mệnh danh là âm nhạc "lãng mạn tinh túy Mỹ Latin của thế kỷ 20".
Ở tuổi 27, không ngạc nhiên là Sánchez đắm chìm trong những tình cảm phức tạp và tinh túy của tình yêu. Và ông không ngại thể hiện ra, phá vỡ các quy định của thời kỳ đó. Như thế, Tristezas như một bài thơ dân gian, kể về nỗi sầu của một chàng trai. Tình yêu đúng là một nghịch lý. Người con gái mà anh yêu lại trách cứ, hoài nghi về tình yêu của anh. Trong khi, không gì có thể diễn tả được nỗi đau tình ái của anh. Và thế là, vận may ra đi, chẳng để cho đam mê của anh được chảy tràn. Tất cả những gì còn lại chỉ là hồi ức, mà anh giữ mãi trong tim, về nụ hôn mà nàng trao cho anh thuở nào.
Rõ ràng là đánh trúng tâm lý mọi người, bolero nhanh chóng lan ra toàn Cuba, trở thành hình thức âm nhạc mới đầy chất thơ, tao nhã của nơi đây. Từ cuối thế kỷ 19 và những thập niên đầu thế kỷ 20, bolero được hát ở nhà người dân hoặc biểu diễn bởi các nhạc sĩ - ca sĩ ở những không gian thời thượng hay những buổi tụ tập nghệ sĩ. Dần dần, nó là thể loại nhạc phổ biến nhất nơi đây.
Không chỉ đặc trưng về âm nhạc và ca từ, bolero còn có những quy tắc thẩm mỹ và phong cách, quyết định cách ăn mặc, cử chỉ và ứng xử, được đánh dấu bởi sự sang trọng của người biểu diễn.
Ban đầu, bolero được hát bởi một nghệ sĩ du ca chơi guitar. Theo thời gian, họ chơi theo nhóm 2, 3, 4, 5,… người. Bộ ba Cuba Matamoros và sau này là bộ ba Mexico Los Panchos, giúp đưa bolero phổ biến ở Mỹ Latin, Mỹ và Tây Ban Nha.
Về âm nhạc, bolero thường được chơi theo nhịp 4/4 nhưng phong phú về biên soạn. Tính linh hoạt này cho phép bolero xuất hiện trong các tiết mục son và rumba ở Cuba, cũng như copla và flamenco Tây Ban Nha, từ đầu thế kỷ 20. Đôi khi, bolero còn kết hợp với các dòng khác để tạo ra thể loại nhánh như bolero-son, bolero-cha.
Sánchez cũng không ngừng phát triển theo dòng nhạc ông sáng tạo nên. Ông thành lập nhóm ngũ tấu đình đám Santiagueros Trovadores Quintet cùng Luis Felipe Portes, Jose "Pepe" Figarola, Bernabe Ferrer và Emiliano Blez. Đây là nhóm lần đầu biểu diễn Tristezas vào giữa thập 1880. Nhưng mãi gần nửa thế kỷ sau, ca khúc mới được ghi âm trên đĩa nhựa.
Ông cũng trở thành hình mẫu và người thầy của nhiều nghệ sĩ trova vĩ đại sau này như Rosendo Ruiz, Manuel Corona, Alberto Villalón và đặc biệt là Sindo Garay, người ông gặp từ nhỏ và đã dạy những nốt guitar đầu đời. Tại quê nhà, ông là người quảng bá tích cực cho các sự kiện âm nhạc và thậm chí tạo ra những đoạn nhạc quảng báo từ trước cả khi đài phát thành ra đời!
Năm 1918, ông qua đời ở tuổi 62 do đau thắt ngực. Ngoài Tristazas, một số nhạc phẩm đáng chú ý còn được giữ lại của ông là Pobre artista, Rosa I, II và III, Cuando oí la expressión de tu canto, Cuba, mi patria querida, Caridad, Esperanza, Naturaleza và Himno a Maceo. Để tôn vinh ông, Lễ hội Quốc tế Trova Pepe Sánchez được tổ chức hàng năm ở Cuba. Tất nhiên, trong lễ hội, không thể không phát Tristazas!
Vài nét về lịch sử bolero
Bolero là một loại hình thanh nhạc, nhạc cụ và khiêu vũ bắt nguồn từ thành phố Santiago de Cuba từ cuối thế kỷ XIX và lan rộng khắp Cuba qua các nhóm nghệ sỹ du ca.
Với đặc trưng giai điệu sang trọng, nên thơ, những bài Bolero khởi sinh từ Cuba nhanh chóng vượt biển tới Mexico. Sức hấp dẫn của dòng nhạc nhảy chậm buồn và lãng mạn giúp bolero lan tỏa và bén rễ sang các đảo quốc ở vùng Caribe, xuống đến các nước Nam Mỹ như Brazil, Argentina, Colombia, Chile, Venezuela, Ecuador, Bolivia... và cả Tây Ban Nha.
Đại sứ Cuba tại UNESCO Yahima Esquivel khẳng định, bolero không chỉ là một loại hình nghệ thuật mà còn là sự pha trộn giữa các nền văn hóa và ngôn ngữ, giữa văn hóa châu Âu, nhịp điệu châu Phi và bản sắc Mỹ Latinh. Bolero là đại diện cho những khúc nhạc tình Mỹ Latinh có tầm ảnh hưởng vượt biên giới khu vực.