Nhà văn Ma Văn Kháng: 'Văn chương là cái bí tàng giục giã tôi…'
Tác phẩm của Ma Văn Kháng có mặt ở tất cả các cấp học, ở nhiều lần thay đổi sách giáo khoa, thậm chí có những tác phẩm cùng được các bộ sách khác nhau chọn. Ví dụ như tác phẩm Đồng cỏ nở hoa trong Tiếng Việt 4, của cả bộ Cánh buồm và bộ Kết nối tri thức với cuộc sống.
Ở tuổi ngoài 80 ông vẫn xuất hiện trên văn đàn với các tác phẩm Chim én liệng trời cao, Mãi mãi một thời thiếu sinh quân. Ông được trao Giải thưởng Văn học Đông Nam Á (ASEAN) năm 1998 và Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2012.
Báo Thể thao và Văn hóa (TTXVN) có cuộc trò chuyện cùng nhà văn Ma Văn Kháng.
Viết về Tây Bắc bằng cả đam mê
* Sinh và sống ở Hà Nội, điều gì khiến ông gắn bó nhiều với vùng đất Tây Bắc?
- Tôi được phân công và tự nguyện lên Lào Cai dạy học từ cuối năm 1954. Sau 22 năm sinh sống và làm việc ở miền biên viễn Tây Bắc này thì mới chuyển công tác về Hà Nội, nơi tôi sinh ra. Tính ra, từ năm 18 tuổi cho đến khi vào tuổi trung niên 40 - cả một thời trai trẻ, gần 1/4 thế kỷ lập thân, lập nghiệp ở miền đất này, nên đã yêu nó bằng một tình yêu vô cùng kỳ lạ và khó hiểu với hệ diễn giải thông thường, lạ lùng với chính tôi.
Một tình yêu trong trẻo và giản dị. Một tình yêu có tính bẩm sinh, tiên thiên, định mệnh từ trong bản thể máu thịt, nhưng mãnh liệt sâu xa, nó khiến tôi lúc nào cũng như ở trong cơn đam mê bất tận để có thể coi thường, vượt qua tất cả mọi nhọc nhằn, vất vả, hiểm nguy.
Một tình yêu gắn liền với niềm háo hức trước cái bao la, hùng vĩ, ẩn tàng bao nhiêu điều chưa biết. Một tình yêu tươi trẻ, chỉ một cảm hứng dâng hiến. Một tình yêu đi cùng với khát vọng được làm một việc gì đó cho vùng đất này.
Tây Bắc, miền núi phía Bắc mỹ lệ và độc đáo, đau thương và anh hùng đến mê hoặc từ lịch sử, cuộc sống đến con người, màu sắc, hương vị. Còn chuyện cầm bút, về phần mình, văn chương là cái bí tàng giục giã tôi phải chiếm đoạt. Cả 2 lĩnh vực đó, sự phối ngẫu của chúng, là cội nguồn say sưa của tôi.
Tuy nhiên, để thỏa mãn tình yêu, trước đó, tôi đã phải học hỏi rất nhiều. Sống đồng nghĩa với yêu cuộc sống và học hỏi không ngừng!
* Vậy tác phẩm ưng ý nhất của ông có phải về miền đất này?
- Tôi trân trọng tất cả những trang viết của mình. Từ một truyện ngắn 3.000 chữ tới tiểu thuyết 600 - 700 trang. Lý do là tôi thành thật với mình, với nghề.
Tuy nhiên, nếu bắt buộc phải chọn cái tiêu biểu, thì trong sâu xa tôi muốn được dư luận biết đến bộ tiểu thuyết sử thi 2 tập Đồng bạc trắng hoa xòe và Vùng biên ải mà tôi xuất bản năm 1972 và 1983. Bộ sách này là lịch sử được kể bằng hình tượng văn chương, giàu tính thẩm mỹ về một thời đoạn đặc sắc của các dân tộc ở Lào Cai trong bão táp cách mạng, tạo nên một khúc ca bi tráng, cao cả, trong biên niên sử hiện đại. Tập 1 của nó được Giải thưởng Nhà nước năm 2001.
* Dành trọn đời để viết, bí kíp để đi đường dài với văn chương của ông là gì?
- Bí kíp để viết lâu dài của tôi là học hỏi không ngừng trong cuộc sống và nghề nghiệp. Tôi đã tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội, Khoa Ngữ văn; tôi đã theo học khóa 6 Lớp bồi dưỡng Những người viết trẻ của Hội Nhà văn Việt Nam; đã trực tiếp học nghề từ những nhà văn đàn anh, đàn chị; tôi đã đọc các tác phẩm cổ điển và hiện đại tiêu biểu; vừa tự trau dồi chính mình sau bao nhiêu năm cầm bút.
Nhà văn G. Marquez có 2 câu nói rất hay, mà tôi luôn ghi nhớ đại ý. Câu thứ nhất: Tôi không thể hiểu nổi một nhà văn mà không có hiểu biết về 10.000 năm văn học trước mình. Câu thứ 2: Nhà văn là người làm việc với từng từ một.
Tôi yêu cuộc sống, như đã nói ở trên, một tình yêu có tính định mệnh. Nhưng, tôi còn yêu văn chương, vì sứ mệnh cao quý đáng kiêu hãnh của nó nữa. Maxim Gorky nói: "Với quyển sách và cây bút trong tay, chúng ta chiến đấu cho ngày mai". Còn đây là đại ý câu nói của Albert Camus: Nghệ thuật không thể không có hiện thực. Nhưng hiện thực sẽ có giá trị bao năm nếu thiếu nghệ thuật?
* Là nhà văn được nhiều giải thưởng cao quý, đối với ông, giải thưởng có ý nghĩa như thế nào?
- Giải thưởng nào cũng là cao quý với tác phẩm của tôi. Tôi trân trọng và biết ơn. Tuy nhiên, giải thưởng không một chút vương vấn và chưa bao giờ là động lực trong quá trình sáng tác của tôi.
Ý nghĩa trực tiếp của giải thưởng: Tác phẩm sẽ được thêm nhiều người nhớ đến, nhiều người nữa biết đến và đọc nó. Khiến tôi tự tin hơn. Và tôi có thêm chút điều kiện vật chất để cải thiện đời sống.
"Có lẽ chúng ta còn thiếu nhiều cây viết mang tầm vóc, tâm hồn tương xứng với nhu cầu thẩm mỹ của tuổi thiếu nhi" - nhà văn Ma Văn Kháng.
Như sống trong mơ khi tác phẩm ra đời
* Nhìn lại, kỷ niệm nào sâu đậm nhất trong đời văn của ông?
- Đó là những ngày viết và sau đó tiểu thuyết đầu tay Đồng bạc trắng hoa xòe được ấn hành. Tôi cầm quyển sách thơm mùi mực in mà ứa nước mắt. Đây là thành quả ao ước và lao động cật lực sau hơn 10 năm. Niềm vui sướng và tự hào này choáng ngợp cả hồn tôi, khiến cả tháng trời như sống trong mơ.
* Với tác phẩm "Đồng cỏ nở hoa", ông nhắn gửi gì với các em học sinh tiểu học?
- Đây là một truyện ngắn viết về thời đoạn lập nghiệp của một họa sĩ trẻ. Họa sĩ trẻ này vốn có tài bẩm sinh và có thành tựu. Tuy nhiên em đã gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là khi ra đời, gia nhập cuộc sống, vì thói đố kỵ, ganh ghét của đồng nghiệp, có khả năng giết chết một tài năng.
Nhưng, may mắn thay, cuộc sống còn có quy luật riêng của nó. Tài năng đích thực cũng như cái tốt, cái đẹp, vốn có sức mạnh bất khả chiến bại, tài năng là bất diệt!
* Ông đánh giá văn học thiếu nhi hiện nay như thế nào?
- Tôi không có nhiều điều kiện để theo dõi những sáng tác cho thiếu nhi gần đây, nhưng theo thiển ý, những tác phẩm để lại ấn tượng lâu bền về đề tài này còn rất thưa thớt. Có lẽ chúng ta còn thiếu nhiều cây viết mang tầm vóc, tâm hồn tương xứng với nhu cầu thẩm mỹ của tuổi thiếu nhi.
* Tác phẩm "Chim én liệng trời cao" mà ông viết ngoài tuổi 80 được cả người lớn lẫn thiếu nhi yêu thích. Cảm hứng nào để viết được tiểu thuyết dày dặn ở tuổi này?
- Thực tình, khi định viết cuốn Chim én liệng trời cao, tôi có ý nghĩ thế này: Cuộc kháng chiến chống Pháp 9 năm đã trôi qua. Và trong các nhà văn hôm nay còn ai viết về chủ đề ấy nữa? Mà là viết về gương thiếu niên trong cuộc kháng chiến ấy. Mà thêm nữa, cuộc kháng chiến ấy có những đặc trưng riêng, đặc biệt là ở địa bàn miền núi, với những màu sắc riêng của từng dân tộc (Tày, Dao, Hà Nhì…).
Chuyện này dựa trên tư liệu có thật. Trần Văn Tiển là liệt sĩ quê ở xã Cam Đường, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai.
Tôi đã đi điền dã xuống vùng này nhiều năm tháng và tham gia viết lịch sử kháng chiến vùng này. Tung tích của Tiển, tôi ghi chép đầy đủ. Chiến công của Tiển hiện chắc không còn mấy ai nhớ. Lúc tôi ghi chép tư liệu thì chỉ còn mấy bác già nhớ. Tiển lại là con trai của liệt sĩ Hoàng Sào (tỉnh Lào Cai công nhận). Tiển đi liên lạc cho bộ đội, cậu một mình vượt núi Fansipan. Những nhân vật thời kỳ ấy là anh Tô, cán bộ xã Cam Đường, lúc ấy còn sống ở Lào Cai, kể lại cho tôi nghe chuyện của Tiển…
Trong Chim én liệng trời cao có những chương viết tôi rất thích. Ví dụ, chương Mùa cốm; Cảnh đồng bào nổi dậy đấu tranh; Chuyện Tiển ở vùng đồng bào Hà Nhì… Tôi viết quyển này cũng khá công phu, dựng lại cả một thời kỳ cách mạng kháng chiến với không khí riêng biệt của nó. Tôi nghĩ không sống ở vùng đó đủ lâu, thì khó thực hiện được.
* Cảm ơn ông đã chia sẻ!
Hơn 20 tiểu thuyết và gần 200 truyện ngắn
Ma Văn Kháng sinh năm 1936 tại Hà Nội. Tên khai sinh là Đinh Trọng Đoàn. Ông là một nhà văn nổi bật của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ 20. Các tác phẩm của ông đã đạt được nhiều giải thưởng và được đông đảo công chúng biết đến, được nghiên cứu, trích dẫn, giảng dạy trong mấy chục năm nay.
Ông đã sáng tác hơn 20 tiểu thuyết, gần 200 truyện ngắn, phần lớn lấy cảm hứng từ sử thi và thế sự đời tư, đề cập phần nhiều đến cuộc sống và con người vùng Tây Bắc. Dù ông sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, nhưng khoảng thời gian lập nghiệp, giảng dạy ở Tây Bắc đã ăn sâu trong tâm trí ông, trong những tác phẩm của ông viết.
Ông được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2012 cho các tác phẩm Truyện ngắn chọn lọc, Mưa mùa Hạ, Côi cút giữa cảnh đời, Gặp gỡ ở La Pan Tẩn.