BHYT: được gì khi đóng thêm
Trưởng phòng Hành chính Nhân sự
Dòng thông tin về các loại bảo hiểm được in khá nhỏ, lại ghi chung theo tỷ lệ, nên lâu dần tôi "thấy cũng như không".
Khi hay tin Bộ Y tế đề xuất tăng mức đóng bảo hiểm y tế từ 4,5% lương cơ sở lên 6% (vào năm 2032) để tiến tới miễn viện phí trong phạm vi gói dịch vụ cơ bản cho toàn dân, câu hỏi bật ra trong đầu tôi không phải đóng thêm bao nhiêu, nhiều hay ít, mà là: "Tăng mức đóng, rốt cuộc ai được gì, và được như thế nào?".
Nhìn từ phía nhà quản lý, câu trả lời có vẻ rõ ràng.
Niên giám thống kê y tế ghi nhận, tổng chi cho y tế Việt Nam năm 2020 là 272.240 tỷ đồng (gần 12 tỷ USD), trên 100 triệu dân. Tức là chi phí bình quân đầu người của Việt Nam chỉ 120 USD/năm, rất thấp so với Mỹ 11.000 USD, Nhật 4.690 USD, Hàn Quốc 3.400 USD, Trung Quốc 810 USD, Indonesia 337 USD, Ấn Độ 257 USD, theo số liệu của WHO năm 2019.
Việt Nam đã có hơn 95,5 triệu người tham gia BHYT, tương đương 94% dân số. Nhưng trong tổng chi đó, ngân sách nhà nước góp phần lớn - 124.700 tỷ đồng; tiếp đến là nguồn thu từ BHYT khoảng 100.000 tỷ; nguồn từ viện phí, hoạt động dịch vụ chưa đến 48.000 tỷ, số liệu năm 2020.
Người dân đang phải tự chi khoảng 40% - cao hơn ngưỡng 20-25% mà Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo để tránh nguy cơ "nghèo hóa" vì bệnh tật.
Nhìn vào cơ cấu đó, ta sẽ thấy, tăng mức đóng bảo hiểm y tế là việc không thể khác được, nhằm góp phần đưa chi phí y tế bình quân đầu người của Việt Nam tiến gần hơn mức các nước trong khu vực. Với mức tăng 6% (trong đó 2/3 thường do doanh nghiệp đóng), phần tăng thêm của người lao động dao động 30.000-150.000 mỗi tháng.
Theo đề xuất, từ 2026, người có thẻ BHYT sẽ được khám sức khỏe định kỳ, sàng lọc bệnh miễn phí ít nhất mỗi năm một lần; phạm vi chi trả sẽ dần mở rộng, tỷ lệ đồng chi trả của người bệnh giảm xuống. Sau 2030, trong phạm vi gói cơ bản, người dân gần như không phải lo viện phí. Mức đóng tăng lên 6% vào khoảng năm 2032 sẽ song hành với việc xây dựng hệ thống thanh toán "thông minh, đa tầng, đa gói quyền lợi", giúp hạn chế lạm chi, gian lận, dùng bảo hiểm không đúng đối tượng.
Đó là một phác thảo hợp lý: đóng thêm một ít để sau này đỡ phải lo hóa đơn bệnh viện, tránh rơi vào cảnh phải bán nhà, bán đất vì bệnh tật.
Nhưng mọi đề xuất tăng mức đóng đều không dễ dàng nhận được đồng thuận. Tôi nghĩ với BHYT, nguyên nhân phần nào xuất phát từ việc nhiều người chưa hiểu rõ về "cái được" mà họ nhận về.
Những người "được" đầu tiên là nhóm yếu thế: người nghèo, cận nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội, trẻ em, người cao tuổi. Điều này là tất yếu: phải ưu tiên bảo đảm quyền lợi khám chữa bệnh cho họ, thậm chí dùng ngân sách để hỗ trợ phần lớn mức đóng. TP HCM chẳng hạn, quyết định miễn 100% tiền mua BHYT cho hơn hai triệu học sinh và khoảng nửa triệu người 65-75 tuổi từ năm 2026, bằng ngân sách địa phương. Ở góc độ công bằng xã hội, đây là nhóm "được" khá rõ ràng nếu quỹ BHYT trở nên mạnh hơn. Họ bớt nỗi lo viện phí, tiếp cận dịch vụ y tế dễ dàng hơn.
Tuy nhiên, có một nhóm, chiếm không ít trong cơ cấu người đóng, đang khó tự trả lời câu hỏi "mình được gì". Đó là nhóm người đang đi làm, "không nghèo cũng chẳng giàu", đóng đều đặn BHYT hàng tháng. Nhưng khi cần đến viện, nhiều người trong số này vẫn thường chọn cơ sở ngoài công lập hoặc dịch vụ tự chi trả.
Đây vốn không phải lựa chọn vui vẻ gì. Họ bất đắc dĩ phải khám chữa bệnh dịch vụ để tránh cảnh chen chúc, chờ đợi và thủ tục phiền hà của bệnh viện công; chưa nói đến sự nghi ngại với hiệu quả của các loại thuốc trong danh mục được chi trả.
Từ góc nhìn đó, khi nghe tin tăng mức đóng, cảm xúc dễ xuất hiện nhất vẫn là sự mơ hồ về quyền lợi. Người ta có thể hiểu về mặt lý thuyết rằng mình đang góp phần gánh rủi ro y tế cho những người yếu thế hơn, và cho chính bản thân khi về già. Nhưng giữa việc hiểu lý thuyết và hóa đơn khám chữa bệnh thực tế là một khoảng cách không nhỏ.
Khoảng cách ấy sẽ lớn hơn nếu người dân tiếp nhận cụm từ "tiến tới miễn viện phí toàn dân", theo nghĩa đơn giản: vào viện không mất đồng nào, dù chính người đứng đầu ngành y đã phải nhấn mạnh rằng "không có chuyện miễn viện phí tuyệt đối", mà là giảm dần mức người bệnh phải cùng chi trả trong phạm vi quyền lợi được BHYT thanh toán. Phần ngoài danh mục, khám yêu cầu, dịch vụ cao cấp... vẫn do người bệnh tự chi.
Một điều nữa khiến câu chuyện tăng mức đóng khó được đồng thuận rộng rãi là chi phí BHYT đang rất vô hình trong đời sống tài chính cá nhân. Mỗi tháng, tôi và nhiều người khác đều có thể nhìn thấy số tiền mình đã trích đóng cho BHYT. Nhưng cuối mỗi năm, không ai gửi cho chúng ta một bản "sao kê" ghi rõ: anh/chị đã đóng vào quỹ từng này, anh/chị và gia đình đã được quỹ chi trả từng kia trong những lần thăm khám như thế nào, phần còn lại đang góp phần giúp quỹ phân bổ vào những đâu.
Người đóng tiền chủ yếu nhìn thấy phần bị trừ thêm, mà ít khi nhìn thấy phần được quỹ gánh hộ nên phản ứng "khó chịu" là điều dễ hiểu. Để thuyết phục người dân đồng hành với lộ trình mới, có lẽ ngoài những con số về tỷ lệ bao phủ và cấu trúc quỹ, cần thêm một bước minh bạch hóa: cho người dân thấy rõ hơn khoản đóng góp đã quay về phục vụ mình lúc rủi ro ốm yếu như thế này. Điều này hoàn toàn khả thi trong thời đại chuyển đổi số, liên thông dữ liệu y tế.
Từ góc độ của một người lao động bình thường, tôi không phủ nhận mục tiêu giảm chi tiền túi, khám sức khỏe định kỳ, tiến tới miễn viện phí trong phạm vi gói cơ bản là một chủ trương nhân văn. Trong một xã hội đang già hóa nhanh, bệnh tật mạn tính ngày càng nhiều, việc có một "tấm lưới" y tế an sinh dày hơn là điều đáng mơ ước.
Nhưng để những mục tiêu lớn dễ đạt được sự đồng lòng, câu hỏi "tăng mức đóng BHYT, ai được gì?" cần được trả lời rõ ràng hơn. Rõ không chỉ ở tầm vĩ mô - rằng hệ thống y tế, ngân sách, nhóm yếu thế sẽ hưởng lợi - mà rõ cả ở tầm mỗi gia đình, mỗi người đang nhìn bảng lương bị trích thêm: trong 5-10 năm tới, hóa đơn bệnh viện của họ, của cha mẹ, con cái họ sẽ khác gì so với hiện nay.
Ngoài ra, danh mục thuốc do quỹ BHYT thanh toán cần được mở rộng và cập nhật thường xuyên hơn thay vì giữ nguyên như 8 năm qua; chất lượng phục vụ của hệ thống bệnh viện công cũng cần được cải thiện nhanh chóng, tránh cho người dân tình thế đóng BHYT đều đặn nhưng khi cần vẫn bất đắc dĩ chọn khám chữa bệnh dịch vụ - trả tiền...
Ngân sách cần thêm nguồn, người yếu thế cần thêm chỗ dựa, điều quan trọng đó không thể phủ nhận. Nhưng trước khi tăng thu, nhà làm chính sách hãy nói cụ thể hơn: phần tăng thêm ấy sẽ quay trở lại với họ, với gia đình họ bằng những quyền lợi gì, vào lúc nào, không chỉ bằng cụm từ chung chung, dễ gây kỳ vọng sai như "miễn viện phí toàn dân".
Đoàn Mạnh Dũng