Động lực tăng trưởng mới của TP HCM (*): Hướng đến trung tâm kinh tế số khu vực
TP HCM có đủ điều kiện trở thành siêu đô thị phát triển kinh tế số vươn tầm khu vực
TP HCM vừa ban hành kế hoạch triển khai Chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn Việt Nam và Chương trình phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn đến năm 2030, định hướng đến năm 2050 nhằm xây dựng, phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo trong ngành công nghiệp bán dẫn, công nghệ số cốt lõi. TP HCM cũng đặt mục tiêu tổng thể kinh tế số sẽ đóng góp khoảng 25% GRDP năm 2025 và nâng lên trên 40% vào năm 2030.
Gỡ điểm nghẽn để tăng trưởng đột phá
Theo Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ TP HCM Lâm Đình Thắng, sau sáp nhập, thành phố đã có thêm không gian và nguồn lực để phát triển. Đi cùng với đó là yêu cầu phải xây dựng một mô hình tăng trưởng mới, có tính đột phá, dựa vào năng suất và công nghệ cao, trong đó kinh tế số giữ vai trò động lực then chốt.
Ông Thắng nhấn mạnh phát triển kinh tế số không chỉ là định hướng chiến lược mà còn là yếu tố then chốt để TP HCM đạt mục tiêu tăng trưởng bền vững. Việc hợp nhất đã tạo nên một siêu đô thị có khả năng trở thành động lực chuyển đổi số quốc gia. Sự kết hợp giữa thế mạnh dẫn đầu về chỉ số chuyển đổi số (DTI) và hạ tầng số của TP HCM; nền công nghiệp phát triển mạnh mẽ của Bình Dương cũ cùng tiềm năng cảng biển - du lịch và tốc độ tăng trưởng kinh tế cao của Bà Rịa - Vũng Tàu cũ được kỳ vọng sẽ hình thành một mô hình phát triển số hóa khu vực tích hợp.

"TP HCM đang trong giai đoạn "chạy nước rút" để hoàn thiện các giải pháp chiến lược, với mục tiêu đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức 2 con số trong giai đoạn 2026 - 2030" - ông Thắng thông tin.
Theo ông Võ Thành Đăng (Danny Võ), Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nhân Việt Nam ở nước ngoài, tiềm năng kinh tế số của TP HCM vẫn chưa được khai thác xứng tầm. Những ngành then chốt như trí tuệ nhân tạo (AI), bán dẫn, dữ liệu lớn hay công nghệ tài chính (fintech) mới dừng ở mức thử nghiệm, chưa đủ quy mô để hình thành ngành công nghiệp thực thụ. Một số startup và tập đoàn quốc tế đã hiện diện nhưng hệ sinh thái chưa hoàn chỉnh. Nguyên nhân là thành phố chưa có cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (sandbox) pháp lý, buộc doanh nghiệp (DN) phải thử nghiệm trong "vùng xám" với rủi ro cao. Điều này khiến các startup e ngại mở rộng và các tập đoàn lớn dè dặt chọn TP HCM làm nơi thử nghiệm.
Ông Danny Võ cũng cho rằng sự liên kết vùng chưa được phát huy đúng mức. Khu vực Bình Dương trước đây mạnh về công nghiệp, Bà Rịa - Vũng Tàu có lợi thế cảng biển và du lịch, trong khi TP HCM giữ vai trò trung tâm dịch vụ và công nghệ. Tuy nhiên, ba mảnh ghép này vẫn chưa gắn kết hiệu quả để tạo sức bật chung.
Một điểm đáng lưu ý khác là thương hiệu kinh tế số của TP HCM chưa rõ ràng. "TP HCM chưa xác định được vị trí rõ ràng như trung tâm AI, fintech hay dữ liệu lớn, khiến nhà đầu tư khó nhận diện và ngần ngại rót vốn lâu dài. Thêm vào đó, nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực AI, bán dẫn, khoa học dữ liệu cũng còn rất khan hiếm" - chuyên gia này phân tích.
TS Trần Hải Linh, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nhân và Đầu tư Việt Nam - Hàn Quốc (VKBIA), nhấn mạnh đến những điểm nghẽn lớn mà TP HCM phải đối mặt. Trước hết, nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu, bởi TP HCM mới chỉ dừng lại ở việc đào tạo đại trà, trong khi các nước như Hàn Quốc, Trung Quốc đã bước sang giai đoạn tuyển chọn tinh hoa để đào tạo cho các ngành mũi nhọn. Lĩnh vực công nghiệp công nghệ cao và bán dẫn tại Việt Nam nói chung, TP HCM nói riêng vẫn chủ yếu ở khâu gia công, lắp ráp, chưa nắm được công nghệ lõi nên phụ thuộc nhiều vào DN nước ngoài.
Ông Linh dẫn chứng trường hợp Intel cùng một số tập đoàn lớn khác hiện chỉ dừng ở việc vận hành nhà máy gia công tại TP HCM, chứ chưa phát triển công nghệ lõi tại chỗ, làm cho giá trị nội tại ngành vẫn thấp. Ngoài ra, hạ tầng dữ liệu và chuyển đổi số của thành phố chưa đạt chuẩn quốc tế, thiếu sự kết nối với năng lượng tái tạo, tạo ra khoảng trống lớn khi định hướng thành siêu đô thị thông minh.
Môi trường đầu tư của TP HCM cũng còn nhiều bất cập, như thủ tục rườm rà, sự phối hợp thiếu đồng bộ giữa các cơ quan quản lý. Những vụ việc tại Thủ Thiêm gần đây ít nhiều ảnh hưởng đến niềm tin của nhà đầu tư quốc tế.
"Cần nhìn thẳng vào thực tế, nếu không nhanh chóng tháo gỡ những hạn chế này, TP HCM sẽ rất khó bứt phá, đạt mục tiêu tăng trưởng 2 con số và trở thành trung tâm kinh tế số của khu vực" - TS Trần Hải Linh băn khoăn.
Ông Võ Thành Đăng và TS Trần Hải Linh đều thống nhất rằng dư địa phát triển kinh tế số tại TP HCM là rất lớn, song nếu không giải quyết đồng bộ các vấn đề về cơ chế, thương hiệu và nhân lực thì khó có thể bứt phá. Bởi vậy, thành phố cần sớm tháo gỡ những điểm nghẽn, từ xây dựng sandbox pháp lý đến đầu tư hạ tầng dữ liệu đạt chuẩn quốc tế, thúc đẩy liên kết vùng và định vị thương hiệu số rõ ràng. Chỉ khi hội đủ các điều kiện này, TP HCM mới có cơ hội đạt được mục tiêu tăng trưởng 2 con số và vươn lên thành trung tâm kinh tế số của khu vực.
Dồn sức cho mũi nhọn mới
Theo các chuyên gia, những mũi nhọn mới cần được thúc đẩy là bán dẫn, AI và dữ liệu lớn.
TS Nguyễn Duy Quang, Trưởng ngành Kinh tế số Trường ĐH Kinh tế - Tài chính TP HCM, cho rằng thành phố cần hình thành các khu công nghệ cao theo mô hình khép kín, gắn kết giữa "khu công nghệ - đại học - viện nghiên cứu - startup". Đây sẽ là chuỗi giá trị khép kín, từ nghiên cứu và phát triển (R&D) đến sản xuất và thương mại hóa, bảo đảm quá trình liền mạch và hiệu quả. Các trung tâm này có thể trở thành hạt nhân thu hút chuyên gia quốc tế, tập trung phát triển dây chuyền bán dẫn, phòng thí nghiệm AI và trung tâm dữ liệu.
"Chính sách ưu đãi thuế, miễn giảm phí và hỗ trợ mặt bằng nhanh chóng sẽ tạo cú hích cho dự án R&D, dây chuyền bán dẫn và trung tâm AI. Thành phố nên thành lập quỹ đầu tư mạo hiểm chuyên ngành với cơ chế đồng cấp vốn giữa nhà nước và tư nhân, từ đó cung cấp nguồn lực tài chính thiết yếu cho khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo" - ông Quang nhấn mạnh.
Là người có chuyên môn sâu về bán dẫn, TS Bùi Xuân Minh, Trưởng nhóm Nghiên cứu thiết kế bán dẫn và Công nghiệp 4.0 - Đại học RMIT Việt Nam, đánh giá những bước đi gần đây của TP HCM về phát triển ngành công nghiệp bán dẫn quốc gia là đúng lúc, mang tính chiến lược.
"TP HCM hiện là nơi hoạt động của nhiều tập đoàn bán dẫn toàn cầu như Intel, Samsung, Synopsys, Renesas, Marvell, Microchip và Faraday. Những công ty này không chỉ mang lại vốn đầu tư mà còn góp phần chuyển giao công nghệ, kết nối chuỗi cung ứng, mở rộng hợp tác nghiên cứu với các trung tâm trong và ngoài nước. Với chiến lược mới, TP HCM có cơ hội mở rộng chuỗi giá trị bán dẫn, không chỉ dừng ở sản xuất, lắp ráp và kiểm thử mà còn tiến đến nghiên cứu, phát triển và chế tạo chip bán dẫn" - TS Minh nhìn nhận.
Nếu lộ trình này được triển khai hiệu quả, TP HCM có thể trở thành trung tâm thiết kế và R&D bán dẫn hàng đầu khu vực vào năm 2030. Xa hơn, đến năm 2050, TP HCM được kỳ vọng trở thành trung tâm bán dẫn toàn cầu với một hệ sinh thái hoàn chỉnh và tự chủ, từ phần mềm thiết kế, sản xuất đến đóng gói và kiểm thử.
(Còn tiếp)
(*) Xem Báo Người Lao Động từ số ra ngày 3-10
Giai đoạn then chốt
Theo ThS Nguyễn Trúc Vân, Giám đốc Trung tâm Mô phỏng và Dự báo kinh tế - xã hội (Viện Nghiên cứu Phát triển TP HCM), giai đoạn 2026 - 2030 được xem là thời kỳ then chốt để thành phố vươn lên trở thành trung tâm kinh tế, tài chính, khoa học - công nghệ hàng đầu khu vực và thế giới.
Để đạt được mục tiêu này, kế hoạch tăng trưởng cần được xây dựng đồng bộ, dựa trên 5 trụ cột chính và bám sát các nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị, như Nghị quyết 57/2024 về phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia hay Nghị quyết 59/2025 về hội nhập quốc tế.
Định lượng mức độ phát triển kinh tế số
Song song với chiến lược dồn sức cho các mũi nhọn, việc đo lường mức độ phát triển kinh tế số cũng được đặt ra như một yêu cầu cấp thiết.
Ông Bình Nguyễn, Ban Công nghệ Dữ liệu & AI - Tập đoàn CT Group, góp ý TP HCM cần sớm xây dựng bộ chỉ số kinh tế số ở cấp thành phố. "Bộ chỉ số này phải dựa trên 5 trụ cột trọng yếu, gồm: hạ tầng số, DN số, dịch vụ công số, nhân lực số và đổi mới sáng tạo số. Đổi mới sáng tạo số có thể đo lường qua số lượng startup công nghệ, bằng sáng chế, sản phẩm số hay mức đầu tư vào R&D" - ông phân tích.
Theo ông Bình, bộ chỉ số này cần khai thác tối đa nguồn dữ liệu sẵn có, từ hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt, thương mại điện tử, mạng xã hội, đến dữ liệu định vị và logistics. Việc phân tích toàn diện các dữ liệu này không chỉ giúp đo lường mức độ ứng dụng công nghệ trong đời sống và sản xuất, mà còn phản ánh trực tiếp vào các chỉ số tăng trưởng GRDP, năng suất lao động hay tỉ lệ số hóa trong những lĩnh vực then chốt.