Kiến nghị xây dựng chế độ viên chức đặc thù cho người làm báo
Gần 20 chuyên gia, nhà khoa học, các cơ quan chuyên môn đã tích cực trao đổi, thảo luận góp ý tại Hội nghị lấy ý kiến dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi) và Luật Viên chức (sửa đổi) do Đoàn đại biểu Quốc hội Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức chiều 23/9.
Bảo đảm tiến bộ, công bằng

Góp ý về dự thảo Luật Viên chức (sửa đổi), ông Trần Quốc Hưng, đại diện Bệnh viện Nhân dân Gia Định, cho biết Luật Viên chức 2010 có quy định cơ quan, đơn vị chỉ được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với viên chức, người lao động sau 2 năm liên tiếp đánh giá không hoàn thành nhiệm vụ.
Theo ông Hưng, quy định này đang gây khó cho các cơ quan bởi khi đánh giá một viên chức không hoàn thành nhiệm vụ, tập thể phải cân nhắc rất kỹ, dành thời gian dài góp ý, phê bình để họ sửa đổi, khi không còn chuyển biến mới đi đến kết luận không hoàn thành. Sau giai đoạn đó, cơ quan, đơn vị phải chờ thêm 2 năm nữa mới có thể chấm dứt hợp đồng. Có những trường hợp viên chức không có tinh thần làm việc nhưng cũng không vi phạm cụ thể, dẫn đến ảnh hưởng hoạt động chung.
Góp ý cho định nghĩa viên chức là công dân Việt Nam, Tiến sỹ Nguyễn Xuân Thủy, Phó Chánh văn phòng Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh khuyến nghị cần mở rộng để thống nhất với Điều 19 trong trường hợp tuyển dụng làm viên chức người có quốc tịch Việt Nam ở nước ngoài hoặc người có quốc tịch nước ngoài ở Việt Nam (khoản 1). Ở Điều 15 cần bổ sung: Đơn vị sự nghiệp được phép tuyển thêm viên chức ngoài chỉ tiêu biên chế được giao chỉ khi tự cân đối quỹ lương, nhưng vẫn phải báo cáo cơ quan quản lý để kiểm soát tổng thể. Đối với điều 16, cần bổ sung thêm quy định về ưu tiên chính sách (người dân tộc thiểu số, người có công, nhân tài…); quy định “mọi hành vi gian lận trong tuyển dụng sẽ bị xử lý nghiêm”…

Liên quan đến vấn đề viên chức, bà Lý Việt Trung, Tổng Biên tập báo Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, hiện vẫn còn tình trạng người lao động trong các cơ quan báo chí nhà nước bị “đứng ngoài” quy trình công nhận viên chức, trong đó có cả Ban biên tập.
Theo bà Trung, việc tuyển dụng phóng viên, nhà báo ở các cơ quan báo chí rất khắt khe. Trước khi chính thức được tuyển dụng, phần lớn đều trải qua thời gian dài làm cộng tác viên, sau đó mới ký hợp đồng lao động. Trong quá trình công tác, họ cũng phải thực hiện KPI như ở các cơ quan, đơn vị khác. Tuy nhiên, dù có nhiều năm gắn bó, đạt thành tích và nhiều bằng khen thì nhiều người vẫn chỉ ở dạng hợp đồng có thời hạn.
Từ thực tiễn, bà Trung kiến nghị cần xây dựng chế độ viên chức đặc thù cho người làm báo, tương tự như trong lĩnh vực y tế, giáo dục; đồng thời, nên cho phép chuyển đổi sang hợp đồng viên chức đối với những người đã làm việc tại tòa soạn từ 5 năm trở lên, nhằm bảo đảm quyền lợi chính đáng cho họ.
Tạo cơ hội để báo chí phát triển

Góp ý cho dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi), nhiều đại biểu nhấn mạnh đến cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, chuyển đổi số, thực hiện nhiệm vụ chính trị nên phần lớn các cơ quan báo chí chính thống rất cần sự hỗ trợ từ nguồn ngân sách, tạo điều kiện và đa dạng hóa các hoạt động phát triển kinh tế báo chí.
Về trách nhiệm của nhà nước đối với quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí của nhân dân (điều 8), Tiến sỹ Nguyễn Xuân Thủy đề nghị bổ sung nội dung: “Nhà nước có chính sách bảo vệ an toàn cho nhà báo, phóng viên tác nghiệp đúng pháp luật”. Chủ trương của Đảng cũng từng nhấn mạnh phải bảo vệ người đấu tranh chống tiêu cực, trong đó có nhà báo. Quy định này mang ý nghĩa tuyên bố, làm cơ sở để Bộ Công an, chính quyền địa phương có biện pháp hiệu quả bảo vệ nhà báo khi cần.
Tại khoản 5 Điều 9 của dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi) nêu rõ: “Thông tin ảnh hưởng tiêu cực đến vị thế, uy tín, hình ảnh Việt Nam; gây phương hại đến quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế….” là điểm mới so với luật cũ.Tuy nhiên, cụm từ này là khá rộng và mang tính định tính, dễ bị suy diễn nên đề nghị sửa đổi thành cấm “Đăng, phát thông tin sai sự thật hoặc xuyên tạc gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín, hình ảnh quốc gia, hoặc gây phương hại đến quan hệ đối ngoại…”.
Thực tế báo chí đã góp phần phanh phui nhiều vụ tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam, ban đầu có thể làm “xấu hình ảnh” một số tổ chức, địa phương, nhưng về lâu dài giúp làm trong sạch bộ máy và nâng cao uy tín đất nước. Nếu hiểu sai khoản 5 này, có nguy cơ một số nơi vịn vào “ảnh hưởng hình ảnh” để cản trở báo chí chống tiêu cực.
Cùng quan điểm, ông Mai Ngọc Phước, Tổng Biên tập Báo Pháp Luật Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, khoản 13 điều 9 có quy định cấm “đe dọa, uy hiếp tính mạng, gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nhà báo, phóng viên; phá hủy, thu giữ phương tiện, tài liệu, cản trở nhà báo, phóng viên hoạt động nghề nghiệp đúng pháp luật”. Tuy nhiên từ thực tiễn, ông Phước đề nghị cần bổ sung thêm khoản về “cấm hành vi đe dọa, tấn công, khủng bố nhà báo trên không gian mạng” vì hiện nay có nhiều nhà báo bị đe dọa trên không gian mạng.
Về cung cấp thông tin cho báo chí, khoản 4 điều 32 dự thảo Luật có điểm mới là cung cấp theo yêu cầu của “Giám đốc Công an cấp tỉnh và tương đương trở lên cần thiết cho việc điều tra...”, tuy nhiên điều tra thì có nhiều giai đoạn, trước khi khởi tố vụ án có các hoạt động điều tra, xác minh; sau khi khởi tố thì sẽ thu thập tài liệu theo tố tụng... Vì vậy, cần quy định rõ là “sau khi có quyết định khởi tố vụ án”.
Về thời hạn trả lời báo chí quy định ở khoản 1, 2 của điều 33, ông Phước kiến nghị cần có quy định về chế tài xử lý nếu trong thời gian 30 ngày mà không trả lời báo chí và chế tài sẽ do Chính phủ quy định. Về thời hạn trả lời tối đa là 30 ngày cũng phù hợp vì hiện địa bàn rộng, vụ việc có thể phức tạp nên cần thời gian thu thập tài liệu chứng cứ...