Bảo hiểm thất nghiệp cần trở thành công cụ kết nối việc làm bền vững

Trường Thịnh 15/07/2025 11:04

Không chỉ dừng lại ở chi trả trợ cấp, chính sách bảo hiểm thất nghiệp cần trở thành công cụ chủ động giúp người lao động tái thiết kỹ năng, kết nối lại thị trường và thích ứng với thay đổi.

Từ khi chính sách bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) có hiệu lực vào năm 2009, mục tiêu đặt ra không dừng lại ở việc chi trả trợ cấp, mà còn hướng đến hỗ trợ học nghề, chuyển đổi việc làm, giới thiệu tuyển dụng và đồng hành cùng doanh nghiệp giữ chân người lao động, phối hợp với các chính sách thị trường lao động khác. Tuy nhiên, sau hơn một thập kỷ triển khai, phần hỗ trợ học nghề vẫn chưa phát huy hiệu quả.

TS. Đào Quang Vinh, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Lao động và Xã hội, cho rằng, con số khiêm tốn về tỷ lệ người thất nghiệp được hỗ trợ học nghề là lời cảnh báo về sự lệch pha giữa mục tiêu và hiệu quả thực tế của chính sách.

Bảo hiểm thất nghiệp cần trở thành công cụ kết nối việc làm bền vững - 1

TS. Đào Quang Vinh - Nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Lao động và Xã hội (Ảnh: Hà Phương).

Theo TS. Đào Quang Vinh, để BHTN trở thành một công cụ dài hạn giúp người lao động tái hòa nhập thị trường và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cần có những bước đi quyết liệt hơn trong việc phát huy các chức năng còn lại - đặc biệt là đào tạo nghề và kết nối việc làm.

Mất việc không chỉ là vấn đề thu nhập hay an sinh cá nhân, mà còn là mắt xích có thể gây đứt gãy chuỗi cung ứng nhân lực, ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực phục hồi và phát triển của doanh nghiệp và cả nền kinh tế.

Việc chuyển hướng từ chính sách chỉ chi trả trợ cấp sang hỗ trợ toàn diện việc làm là bước đi cần thiết để BHTN phát huy đúng vai trò trong bối cảnh thị trường lao động liên tục biến động.

Khi được tổ chức như một hệ sinh thái gồm tư vấn nghề nghiệp, đào tạo kỹ năng, kết nối cung - cầu và hỗ trợ doanh nghiệp, BHTN không chỉ giúp người lao động vượt qua giai đoạn thất nghiệp mà còn là đòn bẩy để họ nâng cao năng lực, chủ động thích ứng với các thay đổi. Khi này, bảo hiểm thất nghiệp thực sự trở thành công cụ kiến tạo thị trường lao động bền vững, chứ không chỉ là phao cứu trợ tạm thời.

Theo ông Đào Quang Vinh, nguyên nhân người lao động thất nghiệp không “mặn mà” với việc học nghề không phải vì thiếu công cụ, mà rào cản nằm ở chính cấu trúc chính sách hỗ trợ: mức chi cho học nghề còn thấp, thời lượng ngắn, danh mục nghề chưa sát với nhu cầu của thị trường.

Mặt khác, mối liên kết giữa trung tâm dịch vụ việc làm, nơi tiếp nhận người lao động hưởng BHTN, với các cơ sở dạy nghề lại chưa chặt chẽ, dẫn tới việc tổ chức lớp học mang tính hình thức, thiếu hấp dẫn và ít người đăng ký.

“Trong bối cảnh thị trường việc làm thay đổi nhanh chóng bởi công nghệ, chuyển đổi năng lượng và biến đổi khí hậu, cần biến chính sách BHTN thành công cụ đầu tư cho tương lai, chứ không chỉ là gói cứu trợ ngắn hạn. Đào tạo nghề cần được triển khai với cách tiếp cận linh hoạt, cá nhân hóa và thực tiễn hơn.

Danh mục nghề đào tạo cần cập nhật sát với nhu cầu tuyển dụng tại địa phương. Việc hỗ trợ học phí và sinh hoạt phí cần đảm bảo tính thực chất, đủ để người lao động có thể học mà không lo mất thu nhập”, TS. Đào Quang Vinh nhấn mạnh.

Bảo hiểm thất nghiệp cần trở thành công cụ kết nối việc làm bền vững - 2

Lao động thất nghiệp học nghề pha chế đồ uống tại Trung tâm dịch vụ việc làm Hà Nội (Ảnh: Hà Phương).

Các trung tâm dịch vụ việc làm cũng cần có cơ chế phối hợp chặt chẽ với doanh nghiệp để từ khâu định hướng nghề đã gắn liền với cơ hội làm việc cụ thể. BHTN khi đó sẽ không chỉ là cánh tay tài chính đỡ người lao động khi mất việc, mà còn là bàn đạp giúp họ bật xa hơn, vững vàng hơn trong chuỗi biến động của thị trường.

Theo ông Vinh, thay vì chờ người lao động đến gõ cửa, cần chuyển sang mô hình chủ động đón đầu nhu cầu thị trường. Điều này đòi hỏi các trung tâm dịch vụ việc làm phải được đầu tư đồng bộ về hạ tầng dữ liệu, năng lực nhân sự và cơ chế phối hợp với doanh nghiệp, cơ sở đào tạo nghề.

Khi hệ thống thông tin thị trường lao động được cập nhật thường xuyên, các chương trình đào tạo sẽ không còn đơn thuần là dạy những gì có sẵn mà sẽ được thiết kế để dạy đúng những gì thị trường cần. Qua đó, mỗi phiên giao dịch việc làm, mỗi khóa học nghề sẽ trở thành cầu nối, giúp người lao động không chỉ tìm được việc làm, mà còn có năng lực thích ứng lâu dài với biến động nghề nghiệp trong tương lai.

Theo TS. Đào Quang Vinh, hiện nhiều quốc gia như Hàn Quốc, Nhật Bản đã chuyển từ mô hình bảo hiểm thất nghiệp sang bảo hiểm việc làm, trong đó lấy duy trì việc làm, tái đào tạo và tăng khả năng thích ứng làm trọng tâm. Đây cũng là định hướng quan trọng để chính sách BHTN tại Việt Nam trở thành nền tảng bảo vệ việc làm bền vững, góp phần xây dựng một thị trường lao động linh hoạt, hiệu quả và hiện đại.

Ông Bùi Đức Nhưỡng, Phó Cục trưởng Cục Việc làm (Bộ Nội vụ) cho biết, hiện nay, Cục Việc làm đang chủ động hoàn thiện chính sách hỗ trợ việc làm theo hướng thúc đẩy đào tạo kỹ năng và kết nối việc làm bền vững.

Theo ông Nhưỡng, hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm đã tư vấn, giới thiệu việc làm cho khoảng 3 triệu lượt người/năm, đồng thời đẩy mạnh kết nối cung - cầu lao động trên cả nước. Sắp tới, cơ sở dữ liệu quốc gia về lao động với hơn 40 triệu hồ sơ sẽ được vận hành, giúp quản lý, kết nối thị trường lao động minh bạch và hiệu quả hơn. 

Khi đó, BHTN không chỉ là “tấm đệm” khi người lao động mất việc mà còn là công cụ chủ động giúp phòng ngừa thất nghiệp, duy trì việc làm ổn định, nâng cao tay nghề, đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp.

Hà Phương

Trường Thịnh