Bỏ chữa ung thư bởi tin 'hóa trị là thuốc độc'
Truyền hóa chất một đợt, chị Mai, 51 tuổi, thấy "đau thấu xương" lại tốn kém nên bỏ điều trị, về nhà uống thuốc nam, kết quả tế bào ung thư di căn khắp cơ thể, tiên lượng kém.
Một năm trước, người phụ nữ ở Hưng Yên, nhận kết quả ung thư vú giai đoạn hai, khối u khoảng 2,5 cm, bác sĩ tư vấn điều trị hóa chất cùng thuốc đích trước phẫu thuật (hóa chất tiền phẫu) để tiêu diệt khối u. Sau đợt truyền đầu tiên, chị đau đớn kèm rụng tóc, ăn kém, buồn nôn, xanh xao. Nghĩ cơ thể suy kiệt lại truyền thêm hóa chất sẽ khiến bệnh nặng, người phụ nữ xin về tự điều trị bằng thuốc nam, bất chấp người nhà khuyên ngăn.
Khoảng vài tháng sau, khối u sưng to gấp 8 lần so với ban đầu, căng tức, vỡ chảy dịch vàng hôi, chảy máu không thể cầm. Quay lại bệnh viện, bác sĩ Nguyễn Việt Anh, nguyên bác sĩ khoa Xạ lồng ngực, Bệnh viện K Trung ương, hiện là Trưởng khoa Ung Bướu, Bệnh viện Đa Khoa Việt Đức, cho biết hiện không thể can thiệp ngay, tiên lượng rất xấu.
Anh Kiên, 58 tuổi, làm nghề thợ mộc ở Phú Thọ, mắc ung thư thực quản giai đoạn hai, cũng từ bỏ phác đồ hóa xạ trị vì bị ám ảnh. Anh từng chứng kiến một người bạn trong làng cũng bị ung thư, sau hóa trị thì đau đớn, rụng tóc, gầy rộc, cuối cùng vẫn qua đời nên tin rằng: "Điều trị chỉ kéo dài đau đớn, chẳng cứu vãn được gì". Sau nhiều lần suy nghĩ, người đàn ông quyết định bỏ điều trị, về nhà tự tìm cách uống thuốc nam hay lá cây.
Vài tháng sau, bệnh nhân nuốt nghẹn, không thể ăn uống, sụt gần 10 kg. Những cơn đau ngực hành hạ buộc anh quay lại viện kiểm tra, nhưng bác sĩ nói khối u đã xâm lấn vào khí quản, điều trị khó khăn, tiên lượng nặng.

Hóa trị là phương pháp sử dụng thuốc để tiêu diệt hoặc kìm hãm sự phát triển của tế bào ung thư. Các loại thuốc hóa trị có thể được đưa vào cơ thể qua đường tiêm, uống hoặc truyền tĩnh mạch. Thuốc hoạt động bằng cách tác động lên các tế bào phân chia nhanh. Ngoài tác dụng tiêu diệt tế bào ung thư, thuốc hóa trị cũng ảnh hưởng đến tế bào lành tính, gây ra một số tác dụng phụ như mệt mỏi, rụng tóc, suy kiệt, mất vị giác, buồn nôn, sốt, viêm loét miệng, thiếu máu, tăng men gan... Tác dụng phụ sau hóa trị thường xuất hiện sau 7-14 ngày.
Hiện chưa có thống kê chính xác về số ca bỏ chữa ung thư, song tình trạng bệnh nhân từ chối điều trị vì ám ảnh hóa chất diễn ra phổ biến. Bác sĩ Việt Anh cho rằng nguyên nhân đến từ một "cú sốc kép": bệnh nhân chưa kịp vượt qua nỗi hoảng loạn khi nhận chẩn đoán ung thư đã phải đối mặt với nỗi sợ hãi đau đớn, rụng tóc và sự thay đổi ngoại hình do hóa trị. Những thay đổi này đôi khi dẫn đến mặc cảm và bị kỳ thị, khiến người bệnh càng thêm chán nản, dẫn đến quyết định từ bỏ điều trị, đánh mất cơ hội sống.
Bên cạnh đó, trong quá khứ, một số loại thuốc hóa trị cũ có độc tính rất cao và phác đồ điều trị chưa được cá nhân hóa như hiện nay. Những câu chuyện và ký ức về bệnh nhân bị suy kiệt, nôn ói không ngừng, tử vong sau khi vào hóa chất trở thành định kiến dai dẳng, lan truyền qua truyền miệng (oral tradition), củng cố niềm tin rằng hóa trị là "liều thuốc độc".
Song, các bác sĩ cho rằng quan điểm "hóa trị giết chết người bệnh" là sai lầm về mặt khoa học. Hóa trị, cùng với phẫu thuật và xạ trị, vẫn là một trong ba trụ cột chính của điều trị ung thư, giúp kéo dài sự sống cho hàng triệu người. Dữ liệu từ các cơ quan như Hiệp hội Ung thư Mỹ (ACS) và Viện Ung thư Quốc gia (NCI) cho thấy tỷ lệ sống sót chung (Overall Survival - OS) của nhiều loại ung thư đã tăng đáng kể nhờ sự kết hợp các liệu pháp tiên tiến và hóa trị. Ví dụ, tỷ lệ sống sót sau 5 năm của ung thư vú tăng từ khoảng 75% vào những năm 1970 lên gần 90% hiện nay, một phần quan trọng nhờ vào phác đồ hóa trị bổ trợ. Đối với ung thư hạch Hodgkin, tỷ lệ chữa khỏi ở trẻ em và người trẻ tuổi hiện đạt trên 90%, với hóa trị là liệu pháp chủ yếu.
Khoa học hiện đại đã đạt được những tiến bộ trong việc quản lý và giảm thiểu mức độ nguy hiểm của hóa trị liệu, biến nó từ một liệu pháp gây sợ hãi thành công cụ điều trị hiệu quả và an toàn hơn. Các biện pháp hỗ trợ hiện được chuẩn hóa, tập trung giải quyết các tác dụng phụ nghiêm trọng.
Cụ thể, để đối phó với chứng buồn nôn và nôn mửa - nỗi ám ảnh lớn nhất của bệnh nhân - các bác sĩ sử dụng thuốc chống nôn thế hệ mới (như các thuốc thuộc nhóm ức chế 5-HT3 và NK1) với khả năng kiểm soát triệu chứng đạt hiệu quả cao. Đối với tình trạng suy giảm bạch cầu do tủy xương bị ức chế, vốn làm tăng nguy cơ nhiễm trùng đe dọa tính mạng, y học đã áp dụng các yếu tố kích thích tạo bạch cầu (Growth Factors), điển hình là G-CSF, giúp tủy xương phục hồi nhanh chóng và giảm đáng kể nguy cơ biến chứng nhiễm trùng. Ngoài ra, các nguy cơ về độc tính tim hoặc thận cũng được kiểm soát chặt chẽ thông qua việc theo dõi liên tục bằng xét nghiệm và chẩn đoán hình ảnh.
"Điều này cho phép các chuyên gia cá nhân hóa liều lượng thuốc, hoặc kịp thời chuyển sang sử dụng các loại thuốc hóa trị có độc tính thấp hơn, bảo vệ các cơ quan quan trọng của người bệnh", bác sĩ nói.
Việt Nam đang đối mặt với một gánh nặng ung thư đáng kể. Ước tính có khoảng 350.000 người Việt đang sống chung với ung thư, với hơn 165.000 ca mắc mới và 115.000 trường hợp tử vong mỗi năm. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), cứ mỗi 100.000 người Việt có 159 người được chẩn đoán ung thư và 106 người tử vong, đưa tỷ suất tử vong vì bệnh này của Việt Nam vào top 50 trong số 185 quốc gia.
Các bác sĩ khuyến nghị người dân nên duy trì lối sống lành mạnh, người trên 40 tuổi nên tầm soát ung thư sớm. "Đặc biệt, khi phát hiện bệnh, điều trị theo phác đồ của y học chính thống là con đường duy nhất, cần tránh xa các quan niệm sai lầm và phương pháp điều trị truyền miệng, không có căn cứ khoa học", bác sĩ Việt Anh nói.
Thúy Quỳnh