Quốc hội biểu quyết về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển

V.T/Báo Tin tức và Dân tộc 11/12/2025 11:05

Với 420/423 đại biểu tán thành bằng 88,79%, sáng 11/12, Quốc hội đã biểu quyết về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026 – 2035.

Chú thích ảnh
Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển giai đoạn 2026 - 2035. Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN

Mục tiêu tổng quát của chương trình, bảo đảm mọi người dân đều được quản lý, chăm sóc sức khỏe ban đầu, phòng bệnh từ sớm, từ xa, ngay tại cơ sở, hạn chế bệnh tật; gia tăng tỷ lệ sinh, phấn đấu tỷ số giới tính khi sinh đạt mức cân bằng tự nhiên, thích ứng với già hóa dân số, nâng cao chất lượng dân số; tăng cường chăm sóc cho các nhóm dễ bị tổn thương; góp phần nâng cao sức khỏe thể chất, tinh thần, tầm vóc, tuổi thọ và chất lượng cuộc sống của Nhân dân, xây dựng một nước Việt Nam khỏe mạnh.

Về mục tiêu cụ thể, chương trình góp phần thực hiện mục tiêu tỷ lệ xã, phường, đặc khu đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế xã là 90% vào năm 2030 và 95% đến năm 2035. Phấn đấu tỷ lệ người dân được lập sổ sức khỏe điện tử và quản lý sức khỏe theo vòng đời đạt 100% từ năm 2030. Tỷ lệ Trung tâm kiểm soát bệnh tật (CDC) các tỉnh, thành phố đủ năng lực xét nghiệm tác nhân, kháng nguyên, kháng thể các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, chất lượng nước sạch, vệ sinh trường học theo quy định của Bộ Y tế đến năm 2030 đạt 100%.

Tỷ lệ trạm y tế xã, phường, đặc khu trên toàn quốc triển khai thực hiện dự phòng, quản lý, điều trị một số bệnh không lây nhiễm theo hướng dẫn của Bộ Y tế đến năm 2030 đạt 100% và duy trì đến năm 2035. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em dưới 5 tuổi đến năm 2030 giảm xuống dưới 15% và đến năm 2035 giảm xuống dưới 13%. Tỷ suất sinh thô đến năm 2030 tăng thêm 0,5‰ so với năm 2025 và đến năm 2035 tăng thêm 0,5‰ so với năm 2030. Tỷ số giới tính khi sinh đến năm 2030 giảm xuống dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống và đến năm 2035 giảm xuống dưới 107 bé trai/100 bé gái sinh ra sống.

Tỷ lệ cặp nam, nữ được tư vấn, khám sức khỏe trước khi kết hôn đạt 90% vào năm 2030 và 95% vào năm 2035; 70% phụ nữ mang thai được tầm soát ít nhất 4 loại bệnh tật bẩm sinh phổ biến nhất vào năm 2030 và 90% vào năm 2035; 90% trẻ sơ sinh được tầm soát ít nhất 5 loại bệnh bẩm sinh phổ biến nhất vào năm 2030 và đạt 95% vào năm 2035. Số lượng người dễ bị tổn thương được tiếp cận, sử dụng các dịch vụ tại các cơ sở chăm sóc xã hội đến năm 2030 tăng thêm 70% so với năm 2025 và đến năm 2035 tăng thêm 90% so với năm 2030.

Về đối tượng thụ hưởng của Chương trình, trong đó ưu tiên các đối tượng ở vùng có điều kiện kinh tếxã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tếxã hội đặc biệt khó khăn, miền núi, biên giới, hải đảo; người có công với cách mạng, người cao tuổi, bà mẹ, trẻ em, các cặp vợ chồng và cá nhân trong độ tuổi sinh đẻ, người khuyết tật, người di cư, lao động các khu công nghiệp và các đối tượng ưu tiên khác theo quy định của Chính phủ.

Các tỉnh, thành phố trong cả nước, ưu tiên vùng có điều kiện kinh tếxã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tếxã hội đặc biệt khó khăn, miễn núi, biên giới, hải đảo.

Thời gian thực hiện Chương trình từ năm 2026 đến hết năm 2035. Tổng nguồn vốn thực hiện giai đoạn 2026 - 2030 là 88.635 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách Trung ương 68.000 tỷ đồng, vốn ngân sách địa phương 20.041 tỷ đồng, nguồn vốn khác dự kiến 594 tỷ đồng.

Căn cứ kết quả thực hiện của Chương trình giai đoạn 2026 - 2030, Chính phủ trình Quốc hội quyết định nguồn lực thực hiện Chương trình giai đoạn 2031 - 2035.

Về cơ chế, giải pháp thực hiện Chương trình: Ban hành các văn bản hướng dẫn, cơ chế, chính sách về quản lý, chuyên môn kỹ thuật để thực hiện đầy đủ, đúng tiến độ các hoạt động của Chương trình. Thực hiện đồng bộ các giải pháp huy động nguồn lực, bố trí đủ và kịp thời vốn ngân sách Trung ương, ngân sách địa phương; huy động tối đa các nguồn vốn hợp pháp khác; bảo đảm đủ nguồn nhân lực tham gia thực hiện Chương trình.

Trong đó, tập trung nguồn lực của Chương trình để giải quyết các vấn đề chính sau đây: Nâng cao năng lực mạng lưới y tế cơ sở, đầu tư cơ sở hạ tầng, thiết bị; đào tạo bác sĩ chuyên khoa; đổi mới hoạt động, cung ứng dịch vụ; ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, theo dõi và tư vấn sức khỏe toàn diện. Nâng cao hiệu quả phòng bệnh và nâng cao sức khỏe: Đầu tư thiết bị; phòng, chống chủ động dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm; phòng, chống bệnh không lây nhiễm, bệnh tật phổ biến lứa tuổi học đường và bảo đảm dinh dưỡng hợp lý. Thúc đẩy gia tăng tỷ lệ sinh, đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên, nâng cao chất lượng dân số, thích ứng với già hóa dân số, đẩy mạnh chăm sóc sức khỏe người cao tuổi. Nâng cao chất lượng chăm sóc xã hội cho người dễ bị tổn thương; phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng. Nâng cao hiệu quả truyền thông, giáo dục về sức khỏe và dân số.

Việc quản lý, tổ chức thực hiện Chương trình thực hiện theo quy định của pháp luật về cơ chế quản lý, tổ chức thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, đầu tư công, ngân sách Nhà nước và pháp luật có liên quan.

Về cơ chế, chính sách đặc thù trong thực hiện Chương trình, Quốc hội quyết định phân bổ chi ngân sách Trung ương; Thủ tướng Chính phủ giao dự toán, kế hoạch cho các bộ, cơ quan Trung ương và địa phương theo tổng vốn Chương trình, chi tiết chi đầu tư, chi thường xuyên.

HĐND cấp tỉnh quyết định hoặc phân cấp cho HĐND cấp xã quyết định phân bổ chi tiết đến nội dung, hoạt động, lĩnh vực chi, dự án thành phần, danh mục dự án đầu tư công của Chương trình theo định mức phân bổ chi ngân sách Nhà nước do HĐND cấp tỉnh quyết định.

Bộ, cơ quan Trung ương, UBND các cấp và các đơn vị sử dụng ngân sách Nhà nước các cấp quyết định điều chỉnh kinh phí, vốn (bao gồm các khoản chi được giao dự toán hằng năm và các khoản chi được chuyển nguồn từ năm trước sang theo quy định) từ các nội dung, hoạt động đã hết nhiệm vụ chi để thực hiện các nội dung, hoạt động khác thuộc Chương trình đảm bảo không vượt quá tổng mức, không làm thay đổi cơ cấu chi đầu tư, chi thường xuyên đã được cấp có thẩm quyền giao.

Dự thảo của Nghị quyết của Quốc hội giao Thủ tướng Chính phủ quy định nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ ngân sách trung ương thực hiện Chương trình.

V.T/Báo Tin tức và Dân tộc