Những điểm mới của Luật Công nghệ cao vừa thông qua

12/12/2025 11:10

Luật Công nghệ cao (sửa đổi) được đánh giá là bước chuyển mình từ "khuyến khích chung chung" sang "đầu tư trọng điểm" và "kiểm soát thực chất".

Luật được Quốc hội thông qua ngày 10/12, gồm 6 Chương, 27 Điều, đưa ra loạt quy định về hoạt động công nghệ cao, các biện pháp khuyến khích, chính sách ưu đãi, giúp tháo gỡ nhiều bất cập, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Một góc khu công nghệ cao TP HCM vào tháng 12/2019. Ảnh: Như Quỳnh
Một góc khu công nghệ cao TP HCM vào tháng 12/2019. Ảnh: Như Quỳnh

Bổ sung khái niệm công nghệ chiến lược và công nghiệp chiến lược

Theo luật mới, Nhà nước xác định phát triển công nghệ cao, công nghệ chiến lược là đột phá giúp phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ quốc gia. Cùng với đó, các mức ưu đãi cao nhất về thuế phí, đất đai, thu hút nhân tài cũng được áp dụng cho hoạt động công nghệ cao, công nghệ chiến lược.

Sự khác biệt lớn nhất của Luật Công nghệ cao (sửa đổi) nằm ở việc bổ sung hai khái niệm quan trọng là công nghệ chiến lược và công nghiệp chiến lược. Theo đó công nghệ chiến lược được định nghĩa là công nghệ có tính đột phá, lan tỏa, được Nhà nước xác định tập trung đầu tư để tăng cường tự chủ và lợi thế cạnh tranh quốc gia. Công nghiệp chiến lược là ngành công nghiệp sản xuất sản phẩm công nghệ chiến lược và cung ứng dịch vụ công nghệ chiến lược.

Việc phân loại mới cho phép Nhà nước tập trung nguồn lực vào nhóm công nghệ có tác động dài hạn tới nền kinh tế. Khác với công nghệ cao thông thường, công nghệ chiến lược phải đáp ứng thêm các tiêu chí về tạo lợi thế cạnh tranh quốc gia lâu dài; hình thành phương thức sản xuất mới; và quan trọng nhất là khả năng hình thành từ công nghệ lõi do người Việt Nam làm chủ.

Luật cũng phân tách rõ ràng công nghệ cao là công nghệ tạo ra sản phẩm chất lượng vượt trội, còn công nghệ chiến lược liên quan trực tiếp đến an ninh, quốc phòng và sự sống còn của nền kinh tế tự chủ. Việc phân tách này cho phép Nhà nước dồn nguồn lực ngân sách và ưu đãi ở khung cao nhất đối với nhóm chiến lược, thay vì dàn trải cho mọi doanh nghiệp công nghệ cao như trước đây.

Thêm tiêu chí cho công nghệ chiến lược

Tiêu chí xác định công nghệ cao ưu tiên đầu tư phát triển tương tự luật cũ, nhưng luật mới thêm tiêu chí cho công nghệ chiến lược, như tác động đột phá kinh tế xã hội, hình thành ngành mới, chuỗi giá trị mới.

Danh mục công nghệ cao, sản phẩm công nghệ cao cập nhật định kỳ nhưng thêm danh mục công nghệ chiến lược, sản phẩm công nghệ chiến lược. Hợp tác quốc tế mở rộng, nhấn mạnh thu hút đầu tư kèm chuyển giao công nghệ, nội địa hóa, xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao, công nghệ chiến lược.

Luật cũ ít nhấn mạnh hợp tác công tư, cơ chế thử nghiệm có kiểm soát (sandbox). Luật mới bổ sung cơ chế này cho công nghệ cao và công nghệ chiến lược. Quy định sandbox tạo hành lang để doanh nghiệp thử nghiệm công nghệ trong khu công nghệ cao hoặc khu nông nghiệp công nghệ cao mà không vi phạm pháp luật hiện hành, cũng như dễ triển khai trong thực tế.

Phân loại hệ thống doanh nghiệp công nghệ cao

Luật mới cũng phân loại lại hệ thống doanh nghiệp. Luật năm 2008 quy định chung một loại hình doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nhưng luật mới đưa doanh nghiệp vào hệ thống pháp lý, phân tầng rõ ràng với mức độ ưu đãi khác nhau. Doanh nghiệp công nghệ Chiến lược với cầu sở hữu hoặc đồng sở hữu công nghệ lõi, tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư trong nước từ 51% trở lên (trừ trường hợp đặc biệt do Thủ tướng xem xét quyết định).

Doanh nghiệp công nghệ cao được phân loại thành hai nhóm, gồm doanh nghiệp công nghệ cao nhóm 1 và doanh nghiệp công nghệ cao nhóm 2. Nhóm 1 là doanh nghiệp sản xuất sản phẩm công nghệ cao đạt tỷ lệ nội địa hóa tối thiểu và cam kết chi cho R&D tại Việt Nam tối thiểu 1% doanh thu thuần, còn nhóm 2 là các doanh nghiệp đáp ứng tiêu chí công nghệ cao nhưng chưa đạt các ngưỡng về nội địa hóa hoặc mức chi R&D của nhóm 1.

Tăng mức ưu đãi

Với chính sách về nghiên cứu và phát triển, Luật sửa đổi tăng mức ưu đãi dành cho hoạt động nghiên cứu công nghệ cao và công nghệ chiến lược. Luật mới quy định trung tâm nghiên cứu công nghệ cao và công nghệ chiến lược được hưởng mức ưu đãi cao nhất về đầu tư, thuế và đất đai nếu đáp ứng tiêu chí nhân lực và năng lực R&D.

So với luật cũ, các chính sách liên quan tới nghiên cứu được chi tiết hơn, gồm hỗ trợ phòng thí nghiệm dùng chung, ưu đãi thuế cho cá nhân làm R&D và cơ chế xác định chi phí được trừ thay vì chỉ quy định chung về ưu đãi như luật cũ, dẫn đến khó áp dụng. Bên cạnh đó, Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân tại Việt Nam thực hiện mua, bán, sáp nhập, liên doanh, liên kết với doanh nghiệp nước ngoài đang nắm giữ công nghệ lõi, công nghệ chiến lược theo quy định của pháp luật. Hoạt động này được hưởng chính sách hỗ trợ về thẩm định công nghệ, tư vấn pháp lý và ưu đãi thuế đối với phần giá trị công nghệ tiếp nhận theo quy định của Chính phủ.

Luật mới mở rộng phạm vi nghiên cứu sang giải mã công nghệ. Đây là điểm bổ sung lớn so với luật cũ, vốn chỉ tập trung vào phát triển công nghệ. Giải mã công nghệ giúp doanh nghiệp tiếp nhận công nghệ nước ngoài và làm chủ dần, phù hợp định hướng nâng cao năng lực tự chủ.

Về ưu đãi, doanh nghiệp công nghệ chiến lược và doanh nghiệp công nghệ cao Nhóm 1 được hưởng mức ưu đãi cao nhất, gồm thuế thu nhập doanh nghiệp 10% trong 25 năm; miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu R&D trong 5 năm cho doanh nghiệp công nghệ cao, công nghệ chiến lược và doanh nghiệp khoa học công nghệ; doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, trung tâm đổi mới sáng tạo và cơ sở ươm tạo được miễn chứng minh năng lực vốn chủ sở hữu trong dự án đối tác công tư (PPP); đặc biệt sản phẩm công nghệ cao, công nghệ chiến lược được ưu tiên trong đấu thầu và mua sắm công. Những điểm này mở rộng so với luật cũ, vốn chỉ quy định ưu đãi chung, không có ưu tiên theo thứ bậc.

Theo các nhận định, Luật Công nghệ cao (sửa đổi) sẽ tác động lớn tới các doanh nghiệp công nghệ. Trong đó, doanh nghiệp có R&D thực chất và làm chủ công nghệ sẽ hưởng lợi khi cơ chế phân nhóm giúp họ tiếp cận ưu đãi lớn, đồng thời được ưu tiên đấu thầu, đặc biệt trong sản phẩm công nghệ chiến lược. Với doanh nghiệp FDI muốn hưởng ưu đãi phải có cam kết chuyển giao công nghệ hoặc xây dựng hoạt động R&D tại Việt Nam, buộc họ chuyển từ mô hình gia công sang mô hình tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị. Với doanh nghiệp trong nước nói riêng, những công ty sản xuất linh kiện, thiết bị sẽ có cơ hội mở rộng vai trò khi luật nhấn mạnh yêu cầu nội địa hóa. Nếu doanh nghiệp đáp ứng tiêu chí sản xuất sản phẩm công nghệ cao hoặc sản phẩm công nghệ chiến lược, họ được hưởng ưu đãi thuế và có lợi thế tham gia đấu thầu.

Ở chiều hướng ngược lại, doanh nghiệp chỉ lắp ráp hoặc sản xuất không có R&D khó đáp ứng tiêu chí nội địa hóa và nghiên cứu, từ đó khó hưởng ưu đãi. Doanh nghiệp FDI không cam kết chuyển giao công nghệ sẽ bị hạn chế quyền hưởng ưu đãi, khó cạnh tranh trong dự án có yêu cầu công nghệ chiến lược.

Các tổ chức nghiên cứu, trung tâm phát triển công nghệ nhận hỗ trợ kinh phí, cơ sở vật chất cũng hưởng lợi, trong khi nhân lực công nghệ cao hưởng ưu đãi thuế, cư trú, đào tạo. Luật mới tạo khung pháp lý cho trung tâm R&D, trung tâm đổi mới sáng tạo, tổ chức ươm tạo, doanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ cao, khu công nghệ cao, đô thị công nghệ cao, khu nông nghiệp công nghệ cao. Sự liên kết này giúp giải bài toán thiếu không gian thử nghiệm và thiếu sự kết nối viện - trường - doanh nghiệp.

Tăng quyền và trách nhiệm của địa phương

Luật sửa đổi tăng quyền và trách nhiệm của địa phương. So với việc trao quyền thành lập khu công nghệ cao cho Thủ tướng, quyền này sẽ giao cho UBND cấp tỉnh, giúp rút ngắn quy trình phê duyệt và tăng tính chủ động của địa phương. Việc giao quyền mở rộng hoặc điều chỉnh khu công nghệ cao cho cấp tỉnh tạo điều kiện quy hoạch linh hoạt hơn. Đổi lại, địa phương phải đảm bảo nhiệm vụ bố trí quỹ đất, thực hiện hạ tầng kết nối và xây dựng hệ sinh thái công nghệ cao. Đây được xem là điểm khác so với luật cũ chỉ giao nhiệm vụ chung chung.

Với cơ quan quản lý, việc phân quyền giúp địa phương chủ động phát triển khu công nghệ cao và khu nông nghiệp công nghệ cao. Tỉnh, thành có lợi thế về hạ tầng, quỹ đất và khả năng thu hút nhân lực sẽ hưởng lợi lớn. Dù vậy, địa phương thiếu hạ tầng, thiếu nhân lực công nghệ có thể sẽ khó hình thành khu công nghệ cao theo tiêu chuẩn mới. Cơ quan quản lý cấp tỉnh cũng phải gánh thêm trách nhiệm kỹ thuật trong đánh giá, giám sát hoạt động công nghệ cao.

Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2026.

Góp ý kiến tạo
Bạn có thể đặt mọi câu hỏi, vấn đề về Khoa học công nghệ, Đổi mới sáng tạo, Chuyển đổi số trực tiếp cho Bộ Khoa học và Công nghệ
Gửi góp ý