Sức khỏe tình dục - khoảng trống trong y học Việt
Sau nhiều năm bị xem là "vùng trống" của y học, sức khỏe tình dục ở Việt Nam sắp có hướng dẫn quốc gia đầu tiên, được kỳ vọng giúp chuẩn hóa chẩn đoán, điều trị và nâng cao chất lượng chăm sóc toàn diện.
"Ngành y lâu nay chủ yếu tập trung chữa bệnh, cứu người, chưa chú trọng đúng mức đến những vấn đề liên quan sức khỏe tình dục và rối loạn tâm lý trong lĩnh vực này", PGS.TS.BS Nguyễn Quang, Chủ tịch Hội Y học Giới tính Việt Nam, nhận định tại hội nghị khoa học toàn quốc của Hội, ngày 18/10.
Theo ông Quang, sức khỏe tình dục là nền tảng cho sức khỏe thể chất, tinh thần và hạnh phúc của mỗi người, đồng thời góp phần vào sự phát triển xã hội, kinh tế. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) định nghĩa đây là trạng thái khỏe mạnh toàn diện về thể chất, cảm xúc và xã hội liên quan đến tình dục, đòi hỏi cách tiếp cận tích cực, tôn trọng và bảo vệ quyền tình dục của mọi người.
Nếu ở nam giới, lĩnh vực nam khoa những năm qua đã phát triển với nhiều phòng khám và chuyên khoa riêng, thì ở nữ giới, chăm sóc sức khỏe tình dục vẫn còn bị xem nhẹ. Phụ nữ Việt thường e ngại khi nói về nhu cầu hay rối loạn tình dục, khiến việc thăm khám, chẩn đoán và điều trị còn hạn chế. Rào cản văn hóa, sự dè dặt và thiếu hướng dẫn chuyên môn thống nhất khiến nhiều bệnh lý bị phát hiện muộn.
Trong khi đó, rối loạn chức năng tình dục nữ (FSD) là nhóm rối loạn phổ biến, gồm giảm ham muốn, giảm hứng thú, khó đạt cực khoái, khô âm đạo và đau khi giao hợp. Những vấn đề này không chỉ ảnh hưởng đến đời sống tình dục mà còn tác động sâu sắc đến chất lượng sống, hạnh phúc gia đình và sức khỏe tinh thần. Tại Việt Nam, tỷ lệ FSD dao động từ 25% đến 67%, cao hơn ở phụ nữ mang thai, sau sinh, đang điều trị vô sinh hoặc mắc bệnh mạn tính.
Theo ông Đinh Anh Tuấn, Vụ trưởng Sức khỏe Bà mẹ Trẻ em (Bộ Y tế), y học giới tính không phải một chuyên ngành riêng biệt mà là lĩnh vực liên ngành, kết nối sức khỏe nam giới, phụ nữ, nội tiết, tâm lý, bản dạng giới, vô sinh - hiếm muộn... Người làm trong lĩnh vực này cần kiến thức tổng hợp, thậm chí là sự giao thoa giữa y học hiện đại và y học cổ truyền, bởi các vấn đề giới tính và tình dục liên quan đồng thời đến tâm lý, sinh lý, giải phẫu...
Sau hơn một năm soạn thảo và thẩm định, hướng dẫn quốc gia về sức khỏe tình dục dự kiến được Bộ Y tế ban hành trong tháng 10. Đây là lần đầu tiên Việt Nam có tài liệu chuyên môn thống nhất trong lĩnh vực này, đặc biệt chú trọng đến sức khỏe tình dục nữ, coi sức khỏe tình dục là phần không thể tách rời của sức khỏe tổng thể.
"Chúng tôi mong muốn tạo ra một công cụ giúp bác sĩ tiếp cận người bệnh toàn diện hơn, đồng thời giúp người dân cởi mở hơn trong việc chia sẻ và tìm kiếm hỗ trợ y tế", phó giáo sư Quang nói.

Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng để hướng dẫn đi vào thực tế vẫn còn nhiều thách thức. Việt Nam hiện thiếu phòng khám chuyên biệt, nhất là cho phụ nữ; đội ngũ bác sĩ được đào tạo bài bản còn ít, trong khi rào cản văn hóa khiến cả thầy thuốc lẫn bệnh nhân đều ngại đề cập vấn đề tình dục. Do đó, cần xây dựng mạng lưới đào tạo đa chuyên ngành, kết nối bác sĩ nhiều chuyên khoa, đồng thời đưa một số dịch vụ tư vấn - trị liệu tình dục vào hệ thống bảo hiểm y tế để người dân dễ tiếp cận hơn.
Lê Phương